CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TẠI SAO CÓ SỰ ÁC TRONG THẾ GIAN NÀY? (*)– Chú giải của Noel Quession 6
DỤ NGÔN HẠT CẢI, CỎ LÙNG VÀ BỘT-MEN- Chú giải của Fiches Dominicales 14
HIỂU BIẾT VÀ KIÊN NHẪN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long 22
CHÚA KIÊN NHẪN VÀ KHOAN DUNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 39
DỤ NGÔN CỎ LÙNG,MEN BỘT VÀ HẠT CẢI- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 51
TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 62
NƯỚC TRỜI ĐƯỢC VÍ NHƯ…- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty. 66
GIỐNG TỐT– Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 70
LÒNG KIÊN NHẪN- Lm.Đaminh Nguyễn Ngọc Long. 76
LÚA VÀ CỎ- Lm. Giuse Nguyễn văn Thuần. 79
THIÊN CHÚA KIÊN NHẪN VÀ BAO DUNG- Lm. Phêrô Nguyễn Huơng 83
THIÊN CHÚA LUÔN CHO TA CƠ HỘI ĐỂ HOÁN CẢI– Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 87
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Kn 12, 13. 16-19
“Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn trở lại”.
Trích sách Khôn Ngoan.
Ngoài Chúa, không có chúa nào khác chăm sóc mọi sự, ngõ hầu minh chứng rằng Chúa không đoán xét bất công. Vì chưng, sức mạnh của Chúa là nguồn gốc sự công minh, và vì Người là Chúa mọi sự, nên tỏ ra khoan dung với mọi người. Chúa chỉ tỏ sức mạnh Chúa ra khi có kẻ không tin vào uy quyền của Chúa, và triệt hạ kẻ kiêu căng không nhìn biết Người.
Vì là chủ sức mạnh, nên Chúa xét xử hiền lành, Chúa thống trị chúng ta với đầy lòng khoan dung: vì khi Chúa muốn, mọi quyền hành tuân lệnh Người. Khi hành động như thế, Người dạy dỗ dân Người rằng: Người công chính phải ăn ở nhân đạo, và Người làm cho con cái Người đầy hy vọng rằng: Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 85, 5-6. 9-10. 15-16a
Đáp: Lạy Chúa, Chúa nhân hậu và khoan dung (c. 5a).
1) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. – Đáp.
2) Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, lạy Chúa, họ sẽ thờ lạy Ngài, và họ sẽ ca tụng danh Ngài. Vì Ngài cao cả và làm những điều kỳ diệu; duy một mình Ngài là Thiên Chúa. – Đáp.
3) Nhưng lạy Chúa, Ngài là Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, chậm bất bình, rất mực khoan dung và thủ tín. Xin đoái nhìn đến con và xót thương con. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 26-27
“Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp, nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Đấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 13, 24-30 hoặc 24-43
“Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: ‘Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?’ Ông đáp: ‘Người thù của ta đã làm như thế’. Đầy tớ nói với chủ: ‘Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ’. Chủ nhà đáp: ‘Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: “Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta”.
Người lại nói với họ dụ ngôn khác mà rằng: “Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó”.
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: “Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men”.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: “Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn, Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian”. Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: “Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe”. Người đáp rằng: “Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN-A
TẠI SAO CÓ SỰ ÁC TRONG THẾ GIAN NÀY? (*)– Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng, vào giữa lúa, rồi đi mất.”
Vấn đề sự ác là vấn đề trầm trọng nhất trong mọi vấn đề và làm cho mọi người phải suy nghĩ. Ai trong chúng ta vấp phải sự ác trong da thịt mình, khi bệnh hoạn… trong lòng mình với mọi vết thương tình cảm… trong lương tâm khi bị tội lỗi cắn xé… trong gia đình, công việc của mình vì những khó khăn, trong quan hệ nhân bản… Trong thế giới vì những áp bức và bất công đủ mọi loại… Và cái chết? Đối với tất cả mọi người cái chết là biểu tượng không tránh khỏi.
Tại sao có sự ác trong thế giới này?
Chúng ta có sẵn sàng lắng nghe một trong những lời giải đáp khả hữu? Lời giải đáp của Đức Giêsu.
Theo cách thức đơn giản và không thể bắt chước được của Người, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta thấy lòng chúng ta như thế nào? Một cái nhìn hiện thực, không phải là giấc mơ hoang tưởng của những kẻ lạc quan, cũng không phải là sự chê bai có hệ thống và nhị nguyên thiện ác của những kẻ bi quan. Nhân loại là một hỗn hợp của thiện và ác, của “ân sủng” và “tội lỗi”. Trong lòng của chính tôi, có cả hai…cái tốt và cái ít tốt hơn. Và trong mọi con người mà tôi gặp gỡ hoặc sống chung, có cả hai… điều tốt và điều ít tốt hơn. Nhưng như các bạn đã nhận thấy, có một sự khác nhau giữa thiện và ác. Hai người gieo hạt không ngang bằng nhau. Người này gieo hạt ban ngày còn người giao vào ban đêm, lén lút lợi dụng lúc người ta không để ý. Theo những bước chân của Đấng gieo hạt, một kẻ gieo hạt khác lén đến ban đêm để thêm cỏ lùng?
Lạy Chúa, khám phá được điều đó thật tốt cho con!.
Phải, chính Chúa, Đức Giêsu cho con biết rằng điều xấu ác trong con và trong những người khác không phải là khuôn mặt đích thật của chúng con… mà nó lẻn vào một cách lén lút, chúng ta không hay biết, trong những kẽ hở của vô thức. Trong lúc người ta đang ngủ, kẻ thù chợt đến… hắn gieo cỏ lùng… và bỏ đi!
Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?”. Ông đáp: “Kẻ thù đã làm đó?” Đầy tớ nói: “Vậy ông có muốn chúng tôi đi gom lại không?” Ông đáp: Đừng! sợ rằng khi gom cỏ lùng các anh làm bật luôn rễ lúa…”
Trong lời đáp ấy, có điểm làm người ta ngạc nhiên, trong khi mà dụ ngôn “người gieo hạt” Chúa nhật vừa qua, rõ ràng Đức Giêsu đã nhấn mạnh trên nguy hiểm của loài cỏ dại có thể lâu ngày làm cây lúa chết nghẹt. Vậy chúng ta cần phải “lắng nghe” một cách sâu xa hơn nhiều… dụ ngôn, ẩn ngữ, ý nghĩa được che giấu.
“Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt…”
Đây là quyết định của “ông chủ cánh đồng”. Thiên Chúa dành cho Người “sự phán xét” sau cùng. Trong lúc chờ đợi, Người yêu cầu chúng ta không nên “xét đoán”. Thiên Chúa nhẫn nại hơn chúng ta. Tạm thời, Người chịu đựng cỏ lùng: đây là một biểu lộ lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Và chính tôi là người được hưởng lợi bởi sự nhẫn nại ấy của Thiên Chúa: chính trong lòng tôi rễ lúa mì và rễ cỏ lùng đan kết vào nhau.
Lạy Chúa là Chủ cánh đồng, Chúa đã chấp nhận nguy cơ của cỏ lùng nhẫn nại: mầm sự sống và hạt giống sự chết sẽ càng lớn lên.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những thứ óc bè phái của chúng con, khỏi những phán đoán nghiêm khắc và vội vàng. Lạy Chúa, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi sự khắt khe, những cuộc chiến tranh tôn giáo, những ý thức hệ đảng phái. Lạy Chúa, Chúa không muốn có một Giáo Hội của những người “Thanh khiết” những người thuần túy”: Giáo Hội của Chúa là một tập hợp của những người tội lỗi. Chúng con… các Kitô hữu, chúng con không hơn gì những người khác. Với mọi người, với mọi kẻ tội lỗi! Chúa cho họ cơ hội để có thể trưởng thành, để có thể hoán cải.
Tôi có thể áp dụng dụ ngôn này vào những hoàn cảnh sống của tôi không?
Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: “Hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”.
Mùa gặt! Đây là hình ảnh tuyệt vời của Kinh Thánh (Giê-rê-mi-a 51,33; Hô sê 6,11; Giô-en 4,13). Ở Israel, mùa gặt lúa mạch vào tháng tư và mùa gặt lúa mì vào tháng năm… như trong mọi nước khác, ở những mùa màng khác, đó là một cơ hội để quần chúng vui mừng (R 2; Is 9,2; TV 126,6). Sau những công việc nặng nhọc, mùa gặt tỉa: phần thưởng và lễ hội của người nông dân. Mùa gặt trong Kinh Thánh thường là biểu tượng cho cuộc Phán xét vào ngày Thế Mạt (Is 28,27; 17,5; Am 9,13)…
Có phải, tôi sẽ khám phá ý nghĩa ẩn giấu của hình ảnh rất đẹp đẽ ấy?
Đối với Đức Giêsu, tạo vật tiến về mục đích của nó:
Người biết rằng lúa mì sẽ không bị hủy hoại, mặc dù mọi nỗi sợ hãi chính đáng mà chúng ta có thể có phải chấp nhận quan điểm của Đức Giêsu. Phải kiên nhẫn cộng tác vào công việc chậm chạp của Thiên Chúa đồng thời trông cậy vào Người. Điều đó đòi phải có một lòng nhân từ cao cả Chúng ta hãy tôn trọng kẻ tội lỗi và kẻ ác vì cái phần tốt đẹp còn ở trong họ, và vì luôn còn có khả năng họ sẽ hoán cải. Tôi phải tập nhìn điều tốt đẹp có trong nhân loại và không chỉ nhìn cỏ lùng trong cánh đồng. Lời kêu gọi ấy là để đào sâu đức tin của chúng ta: Bạn có thật sự tin vào Thiên Chúa không?
Dẫu sao chúng ta đã được cảnh báo. Sau cùng, khi mùa gặt đến, chúng ta sẽ thấy những hoa trái thật sự của những nỗ lực mà chúng ta đã làm trong cánh đồng của Chúa Cha.
Cha mẹ, vợ chồng, các chiến sĩ tông đồ hãy lắng nghe, lắng ghe điều đó.
Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ cải lớn nhất! nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được”.
“Một” hạt cải… một thôi! Xem ra buồn cười khi chỉ gieo một hạt cải.
“loại nhỏ nhất”: hầu như khó nhìn thấy trong lòng bàn tay. Tuy nhiên, mầm sống ấy sẽ mọc chồi xanh, rồi một cái cây… nếu bạn kiên nhẫn chờ đợi và chăm sóc cây trồng.
“Nước Thiên Chúa” là như thế!
Lạy Chúa tôi, tại sao thế gian dường như còn xa Triều đại của Chúa biết bao? Tại sao có quá ít người đi theo đến cùng Tin Mừng của Chúa?
Cha mẹ, vợ chồng, chiến sĩ, tông đồ… hãy nhìn, nhìn kỹ hạt giống ấy trong thế gian. Điều đáng kể không phải là cái vẻ hiện nay của chúng. Các bạn hãy tưởng tượng đến một cây lớn mà Đức Giêsu đã nhìn thấy trong đôi mắt sống lại của Người. Không còn là hạt cải bé tí xíu… bạn hãy tưởng tướng những con chim sẽ hót trên cây? Và bạn hãy gieo nó vào lòng đất… hạt cải duy nhất của bạn, hạt nhỏ nhất.
Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác: “Nước Trời cũng giống như chuyện một nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men”.
Đây cũng là sự không tương xứng về tỉ lệ giữa lúc đầu và lúc cuối giữa nguyên nhân và hậu quả: Một nhúm men nhỏ, trộn với bốn mươi ký lô bột? Một sức mạnh ẩn giấu của sự sống! Tác vụ của Đức Giêsu đã là một hoạt động rất nhỏ bé trong một vài tháng, mất hút trong một góc của một tỉnh trong đế Quốc La Mã. Nhưng Đttc Giêsu mơ mộng. Người nhìn xa. Tầm nhìn của Người trải rộng đến thời thế mạt, khi “Thiên Chúa sẽ là tất cả trong tất cả khi mọi thứ bột của nhân loại được dậy men Phúc âm. Nhưng về phần tôi, tôi sẽ làm thế nào cho công việc đó tại nơi tôi đang sống?
Một người dù nam hay nữ để cho mình biến đổi thành men. và để cho mình bị vùi xuống, trộn lẫn vào thế gi an… sẽ trở thành một sức sống vô hình thông ban cho tất cả môi trường mà mình được trộn lẫn vào. Tình yêu cư ngụ một con người, đức tin làm cho sống, hy vọng nâng đỡ những thất vọng… đều là “men” làm dậy tất cả bột” một cách vô hình, chậm chạp. Những người kbác cần đức tin, niềm hy vọng, niềm vui, sự thanh khiết, can đảm và lương tri của bạn… Bạn có là một thứ men không?
Tất cả các điều ấy, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn, hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ: “Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa”.
Với Đức Giêsu, nơi tín hữu phân biệt những thực tại “ẩn giấu” trong nơi thâm sâu của mình.
Bấy giờ, Đức Giêsu bỏ đám đông mà về nhà. Các môn đệ lại gần Người và thưa rằng: “Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe”.
Matthêu phân biệt rõ ràng giáo huấn dạy cho mọi người cách công khai và một sự đào sâu hơn về giáo huấn cho người trong nhà và những người tìm hiểu sâu xa hơn. Có phải tôi thuộc về những người ham thích giáo huấn ấy hoặc thuộc những người chỉ bằng lòng với điều tối thiểu?
Lạy Chúa, xin giải thích cho chúng con…
Người đáp: “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Vậy như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù, gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi -nước của Người…”
Lạy Chúa nếu chúng con có làm người khác sa ngã, nếu chúng con có phạm tội, xin Chúa tha thứ cho chúng con.
Rồi quẳng chúng vào lò lửa, ở đó chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng: Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước Cha của họ. Ai có tai thì nghe.
Ở đây Đức Giêsu, sử dụng những hình ảnh thường thấy ở thời đại Người. Không nên giải thích những hình ảnh một cách cụ thể. Chúng có nghĩa là sự hủy diệt chung cuộc mọi sự dữ, là ngày tận thế. May thay! Điều đó sẽ được thực hiện như thế nào? Đó là mầu nhiệm không được tiết lộ.
Về phần những người: được cứu, họ sẽ chói lọi như mặt trời: đây cũng là một hình ảnh để suy niệm trong những tháng hè này.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- A
DỤ NGÔN HẠT CẢI, CỎ LÙNG VÀ BỘT-MEN- Chú giải của Fiches Dominicales
*VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1-Theo gương nhẫn nại của Chúa
Chúa nhật trước, chúng ta đã bắt đầu đọc bài giảng thứ ba trong năm bài giảng lớn của Phúc âm thánh Matthêu là dụ ngôn Người gieo giống. Hôm nay chúng ta tiếp tục với ba dụ ngôn khác. Trước tiên là dụ ngôn hạt cải và cỏ lùng, rồi sau là dụ ngôn bột và men. Cả ba đều tiếp theo sau phần giải thích dụ ngôn người gieo giống.
Dụ ngôn hạt cải và cỏ lùng đều mở đầu giống như dụ ngôn người gieo giống: “Nước Trời thì ví như người kia gieo giống tốt trong ruộng “mình…? Thế rồi đột nhiên câu chuyện trở nên bi đát: các đầy tớ sửng sốt khám phá thấy cỏ lùng đã mọc lan khắp cả ruộng lúa vừa gieo. Họ hỏi ông chủ: “Cỏ lùng ở đâu mà ra vậy ông đáp: “Kẻ thù đã làm đó”. Họ sẵn sàng đi ra ruộng ngay để nhổ hết thứ cỏ dại làm hư ruộng của chủ.
+ “Vậy ông có muốn chúng tôi nhổ cỏ đi không”. Phản ứng tự phát của những người đầy tớ trong dụ ngôn cũng đúng là phản ứng của những người đã mắt thấy tai nghe bài giảng của Đức Giêsu, phản ứng của những tín hữu ở mọi thời. Đó là phản ứng của thánh Gioan Tẩy Giả, người đã vẽ nên bức tranh gây ấn tượng về việc Đấng Mêsia sắp đến: “Tay Người cần nia. Người sẽ rê sạch lúa. trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tốt là đốt đi” (Mt 3,12). Hụt hẫng vì không thấy cách xét xử của Chúa diễn ra y như mình đã loan báo, nên từ trong ngục tù, Người sai hai môn đệ đến hỏi Chúa rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác”. Đó là phản ứng ngỡ ngàng của tất cả những ai đã nghe lời Đức Giêsu loan báo: “Nước Trời đã đến gần, thế mà họ lại chẳng thấy có gì được phác hoạ giống như sự xét xử vẫn trông đợi khi Nước này tới.
Đó là phản ứng tỏ ra thất vọng của mấy môn đệ thân tín của Chúa khi thấy người ta không lịch sự tiếp đón Thầy mình. Giacôbê và Gioan, hai con ông Dêbêđê rất bực mình vì thái độ tiêu cực của một thôn làng miền Samari, liền hỏi Chúa: “ Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống tiêu diệt họ không?”.
Thực vậy, làm sao tin được rằng những hành động chẳng có gì là vẻ vang của Chúa Giêsu như chữa lành người bệnh, quan tâm đến các trẻ em và những người hèn mọn, tiếp xúc gần gũi với những người tội lỗi, mà lại loan báo và thực thi Nước Chúa một cách hiệu quả đang lúc giờ phút xét xử của Thiên Chúa còn muộn màng, chưa tỏ hiện và sự ác thì hoành hành và có mặt khắp nơi.
+ Ông chủ bình tĩnh đáp lời những người giúp việc tỏ ra quá mẫn tiệp: “cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt… sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”.
Từ hình ảnh mùa gieo Nước Thiên Chúa đến-đến mùa gặt kèm theo việc đập lúa – hình ảnh việc xét xử – có một khoảng giữa: Lúc này đang là thời kỳ lúa lớn lên là thời gian nhẫn nại của Thiên Chúa: nếu Thiên Chúa gớm ghét sự ác, thì Người vẫn cứ phải yêu thương con người – kẻ tội lỗi cũng như người công chính – và Người biết rõ tiềm năng lạ lùng của Lời gieo trong lòng họ. Ngày thu hoạch mùa và lựa lọc sẽ đến vào giờ của Người; ngày đó không thể dự đoán trước. ông chủ nói với các gia nhân ông rằng: “Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: Hãy nhặt cỏ lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi. Là một lời mời gọi sống theo gương nhẫn nại của Thiên Chúa, dụ ngôn này đồng thời cũng đề nghị ta suy niệm về thời gian của Giáo Hội: đó là thời gian mà tiềm năng của Lời đang hoạt động, bất chấp mọi trở ngại và chống đối; thời gian chờ đợi ngày cánh chung, thời gian của niềm hy vọng. Lời giải thích dụ ngôn chúa có ý nhắm nói năng cho các môn đệ khi đã về tới nhà xem ra xa với bài học về lòng nhẫn nại mà dụ ngôn đã đưa ra. Điểm nhấn mạnh ở đây không còn nhắm tới sự sống giữa giống tốt và cỏ lùng nữa, mà là sự chọn lựa cuối cùng; đang khi chờ đợi sự chọn lựa này, thì phải cố gắng sống không như “con cái ác thần” mà như “những con cái Nước Trời”.
2-….trong niềm hy vọng hạt giống sẽ nẩy mần:
Xen giữa dụ ngôn cỏ lùng và người gieo giống được giảng cho đám đông, mà giải thích thì dành cho các môn đệ, ta thấy có hai dụ ngôn mới: dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột. Dụ ngôn này cũng như dụ ngôn kia đều nói đến mối tương quan be,1ớn, mà có ý làm nổi bật sự bất cân xứng khác thường giữa một bên là cái bé nhỏ, khiêm tốn hầu như vô nghĩa lúc khởi đầu và bên kia là sự bành trướng lạ thường khi tới đích.
Quả thực, chẳng có tỉ lệ cân xứng chút nào giữa “một hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” và một cây lớn lên từ hạt đó” vì khi mọc lên thành cây lớn nhất trong vườn, nó trở thành cây cổ thụ, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được!”.
Và thật là chẳng cân xứng chút nào giữa một bên là một dúm men hầu như không trông thấy mà người phụ nữ vùi vào trong bột, và ba đấu bột là dùng để ủ men: từ ba trở thành 40 hạt đủ bảo đảm bữa ăn cho hơn 100 người!
Cũng vậy, để làm cho Nước Chúa đến, Thiên Chúa cũng không xử sự khác người nông dân khi gieo vào đất một hạt bé nhỏ, hay như người đàn bà vùi một chút men vào bột. Dù bề ngoài xem quá khiêm tốn, sứ mệnh của Đức Giêsu vẫn cứ khai mào việc Thiên Chúa nhất định can thiệp vào lịch sử của con người. Vậy thì có lẽ nào mà phải nghi ngờ về kết quả chung cuộc?
*BÀI ĐỌC THÊM:
1- “Chưa nhẫn nại đợi chờ”
“Sự nhẫn nại đợi chờ này thực là rõ nét trong dụ ngôn cỏ lùng, tâm điểm của Tin Mừng hôm nay. Cánh đồng được gieo toàn hạt giống tốt. Con người đã gieo vào trần thế những con cái Nước Trời. Ban đêm kẻ thù xuất hiện, Satan tới gieo cỏ lùng. Và thế là có cảnh lẫn lộn trên trần gian, người lành kẻ dữ cùng chung nhau một mảnh đất. Nếu chỉ thoáng nhìn, đôi khi khó mà không phê phán Thiên Chúa. Làm sao Chúa lại để điều ác phát triển như vậy? Những người xấu đôi khi xem ra lại được ưu đãi trong đời sống vật chất hơn những kẻ lành. Đó là vấn đề thường nhật mà không phải chỉ riêng cho những người chân chất. Thiên Chúa để cho như vậy. Và quả thực Thiên Chúa muốn để cho mọc lên hạt giống Người đã gieo; đó là người con Chúa đã tuyển chọn, những người Chúa đã ban ơn thanh tẩy, những người mà Thần Khí đã biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Con của Người. Chúa để cho họ phát triển, cùng lúc để cho cỏ lùng Người đã không gieo và không thể gieo lớn lên. Nhưng Người kiên nhẫn đợi chờ. Thế giới phải đi con đường của mình, và Thiên Chúa cứ để cho họ đi. Người đợi cho đến mùa thu hoạch. Cuộc đời trần gian cứ trà trộn như vậy, nên tốt hơn ta đừng can thiệp quá sớm kẻo làm chết đi cái gì còn đang sống. Nhưng Nước Chúa vẫn không ngừng tiến triển như hạt cải như, bột lên men: Chúa đợi chờ cho mọi cái đạt tới độ chín mùi. Thánh Matthêu khi viết điều này không phải là người không biết đến tình trạng của cộng đoàn mà ngài trách nhiệm. Ngài thấy cộng đoàn ấy lớn lên bước đầu từ hạt cải nhỏ tí ti, rồi trở thành cây lớn. Ngài hiểu biết rằng men đang nằm trong bột, nhưng ngài cũng không thể không biết rằng cỏ lùng lẫn lộn với hạt giống. Chắc chắn điều đó tạo nên vấn đề cho các tín hữu của ngài, cũng như ngày nay vậy và vấn đề không chỉ đơn giản là trấn an những nổi lo âu và hâm nóng lòng tin tường vào Chúa quan phòng. Chứng tỏ cho thấy rằng Nước Chúa vẫn có sức năng động, mặc dầu có những kẻ thù, mặc dầu có những khiếm khuyết, và đồng thời giúp cho cộng đoàn biết suy nghĩ về trách nhiệm của mình đang khi chờ đợi Ngày hội ngộ, đấy mới phải là mục tiêu mà thánh sử nhắm tới.
2- “Hạt giống tốt và cỏ lùng lẫn lộn xà ngầu”
Phân loại nhưng “người lành”, “kẻ dữ ” thực ra có quá dễ dàng như thế không? Chúa Giêsu phán rằng sẽ chỉ đến mùa gặt thì việc phân biệt lựa chọn (nghĩa là đến ngày tận thế) mới thực hiện được: “Con người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người. Phải, việc đó sẽ được thực hiện, nhưng chỉ những tình huống tuyệt vọng nhất, nơi những con người xem như tồi tệ nhất, vẫn còn lập loè vài tia sáng. Hơn nữa, trong tình liên đới giữa con người với nhau, những người bị hãm hại và bị ức hiếp không để mình chịu thua sự độc ác của những kẻ hành hạ mình, mà lại trở thành con đường hộ phù và cứu độ cho những kẻ ấy. Đức Giêsu người đứng đầu các kẻ công chính khi hấp hối trên thập giá đã cầu nguyện: “lạy Cha, xin tha cho chúng..!”. Nét đẹp của con người, vẻ cao cả của một tấm lòng, đức tận tuỵ hy sinh của tình yêu thương cho đến tận cùng cũng biểu lộ cả trong những tình huống tội lỗi hỗn loạn hoàn toàn. Đôi khi chính ở đó mà những vẻ đẹp kia lại tìm những cứ chỉ yêu thương và anh hùng bất ngờ, phải là phép lạ khi hình ảnh của Thiên Chúa thường bị biến dạng mà vẫn ẩn vùi trong thâm sâu của bản thân mỗi người phải là phép lạ khi tình yêu vẫn le lói như một tia sáng yếu ớt và kiên cường ngay ở nơi xem ra chỉ cồ bóng tối; hạt giống nhỏ xíu của Nước Trời “loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” mà người ta tưởng chừng nó phải mất hút, thế mà lại xuyên qua được đá cứng nhất nhờ sức mạnh của nhựa cây? Hạt giống rất quý giá đó mà Thiên Chúa vốn nhẫn nại không cho phép người ta tạo nguy cơ loại bỏ nó, chỉ vì vội muốn nhổ ngay đám cỏ dại. “Sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa… “. Ta phải học cho biết hy vọng cả khi phải nguyện vọng như thế nào?; phải có lòng trắc ẩn và xót thương biết bao để biết tôn trọng tình trạng “‘hổ lốn” mà ta vốn thích phân loại cho rõ rệt! Ta phải học đức nhẫn nại của Chúa, một sự nhẫn nại không mệt mỏi cho đến tận thế, học thương yêu con người, hết mọi người để cho không một ai phải hư mất, học lòng thương yêu của Chúa Con, Đấng đã mặc lấy xác phàm để các anh em nhân loại của Người không phải là những nạn nhân của chính lòng độc ác của họ. Đức nhẫn nại của Cha đâu có biết đến giới hạn? “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt…? Con người thật là quý giá, nên phải coi chừng đừng để mất đi một mảnh vụn nào hết! Thiên Chúa không hề mệt mỏi khi phải kiên nhẫn “cho đến ngày tận thế”.
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN- A
HIỂU BIẾT VÀ KIÊN NHẪN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Câu dẫn nhập ngắn (c. 24a) liên kết dụ ngôn Cỏ lùng (13,24b-30) với hai dụ ngôn tiếp theo (cc. 31a.33a). Chủ đề “gieo giống” cũng là chủ đề của dụ ngôn trước; các từ móc là “gieo” (speirô), “giống” (sperma) và “ruộng” (agros).
Hai dụ ngôn ngắn, Hạt cải và Men (cc. 31-33), đưa chúng ta tới với diễn từ về các dụ ngôn Đức Giêsu giảng cho công chúng. Dụ ngôn Hạt cải, với một câu mở tương tự 13,24, được liên kết với dụ ngôn trước bằng những từ móc “con người” (anthrôpos), “gieo” (speirô), “ruộng” (agros) và “giống” (sperma). Dụ ngôn Men có nhiều điểm khác biệt hơn. Hai dụ ngôn này có bố cục song song trong phần thứ nhất, còn kết luận thì khác nhau.
Các câu 34-35 đưa tới một kết luận cho bài Diễn từ công cộng. Tác giả Mt đưa độc giả trở lại với cc. 2-3 và cc. 10.13. Câu 35b tương ứng với Tv 78,2 LXX, vì có số phức en parabolais (“Mở miệng ra, tôi sẽ kể các dụ ngôn); còn c. 35c không tương ứng với một bản văn Kinh Thánh nào cả và cũng không thuộc ngôn ngữ Mt.
Với c. 36a, chúng ta được đưa trở lại với Mt 13,1-2: thể văn đóng khung. Câu hỏi của các môn đệ kèm theo câu trả lời của Đức Giêsu được đối lại ở c. 51, với câu hỏi của Đức Giêsu và câu trả lời của các môn đệ.
2.- Bố cục
Nếu xác định cấu trúc theo kiểu quen thuộc của Mt, chúng ta có thể cho rằng đoạn văn đọc hôm nay có ba phần A, B và C, với một câu mở và một câu kết như sau:
Mở (13,24a)
-Các dụ ngôn:
(1) Dụ ngôn 1: “Cỏ lùng” (13,24b-30):
- a) Trình bày sự việc (cc. 24b-26),
- b) Mẩu đối thoại giữa chủ nhà và các đầy tớ (cc. 27-30);
(2) Dụ ngôn 2: “Hạt cải” (13,31-32),
(3) Dụ ngôn 3: “Men” (13,33);
-Lý do nói bằng Dụ ngôn (13,34-35);
-Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (13,36-42; c. 36 là câu dẫn nhập):
-a) Giải thích bài dụ ngôn từng từ một (cc. 37-39),
-b) “Bài khải huyền nhỏ” (cc. 40-43);
Kết (13,43).
3.- Vài điểm chú giải
– Cỏ lùng (zizania, 25): Đây là một loại cỏ ăn bám, độc hại. Khắp vùng Trung Đông đầy loại cỏ này. Nó bị coi là một dạng thoái hóa, biến chất, của lúa mì. Trong thân nó, có một thứ nấm thường tiết ra một chất độc.
– Hạt cải (31): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây rau thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Lá của nó có thể làm rau. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt (đường kính khoảng 1mm), nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc, thuốc và thức ăn cho chim. Tục ngữ Do Thái dùng hạt này mà chỉ những gì nhỏ nhất. Sách Mishna coi cây cải đen (brassica nigra) là loại cây trồng ngoài cánh đồng. Nhưng tại Paléttina và nhiều nơi khác, người ta trồng trong vườn nhà.
– Nó trở thành cây to (32): Trong Cựu Ước, cây cho đàn chim trú ngụ là một hình ảnh quen thuộc để diễn tả một vương quốc hùng mạnh đảm bảo che chở các thần dân (x. Ed 17,23; 31,6; Đn 4,9; 11,18). Trong nền văn chương khải huyền, kinh sư hoặc targum, “chim” tượng trưng các dân ngoại đang kéo đến thật đông. Ở đây, Mt nêu bật đặc tính cánh chung của dụ ngôn khi phóng đại kích thước của cây rau thành “một cây to”.
– chim trời tới làm tổ trên cành (32): Chi tiết này không phải là không thể xảy ra, bởi vì chim chóc thích ăn hạt cải.
– vùi vào (33): dịch sát là “giấu trong” (enekrypsen). Động từ này đi với văn cảnh (x. cc. 35.44)
– ba thúng bột (33): “Thúng” là từ được chọn để dịch từ saton Hy Lạp. Saton là một đơn vị đo lường ngũ cốc và bột, tương đương với 13-15 lít. Đây là một lượng bột lớn, khi đã dậy men thì có thể làm ra bánh cho khoảng 150 người ăn. Mt nhấn mạnh đến tính hữu hiệu của men.
– công bố (35): Động từ “công bố”, ereugomai, hiếm khi được dùng. Nghĩa chữ là “mạc khải”, nhưng cũng có thể là “gây ồn ào”, “thốt ra”, “diễn tả”.
– các gương mù gương xấu (40): Trong Kinh Thánh, skandala nhắm đến những sự vật chứ không nhắm đến những con người (x. Mt 18,6-7). Đây là những điều làm cho người khác “vấp”, nghĩa là không đi vững vàng trong đường lối Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Nhìn vào cuộc sống, ta thấy Thiên Chúa ở trong tình trạng ẩn mình, Ngài không can thiệp cách rõ ràng hiển nhiên. Người ta có thể sống không cần và còn chống lại Ngài mà dường như chẳng phải chịu hậu quả gì. Ngài biến mất hoàn toàn đàng sau các thế lực và các quyền hành đang thống trị sân khấu thế giới và đang can thiệp vào trong đời sống chúng ta cách quyết liệt. Tất cả tình trạng này vẫn là một chướng kỳ khiến con người khó mà coi trọng Thiên Chúa và tin cậy nơi Ngài. Điều này cũng đúng cho bản thân và công trình của Đức Giêsu, đúng cho cả cộng đoàn các tín hữu là Hội Thánh. Do bản tính, chúng ta hướng về sự to lớn, sức mạnh, sự hào nhoáng, sự hiển nhiên, sự cao cả, chứ chúng ta không nghiêng về sự chờ đợi, sự kiên trì nhẫn nại. Các giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ lại cách suy tưởng và xử sự của chúng ta.
Đức Giêsu đến không như một nhà chiến thắng oai hùng, có sức thuyết phục và thống trị mọi người. Con đường Người theo và công trình của Người gây nhiều mệt nhọc. Cái chết của Người trong tình trạng bất lực và bị bỏ rơi dường như cung cấp một dấu chỉ rõ ràng cho thấy Người không đáng giá gì và ta không thể tin cậy nơi Người.
Đức Giêsu biết hoàn cảnh khó chịu này, nhưng Người không thay đổi cách xử sự: Người là và vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1,14), Người đã đi vào trong tình trạng lệ thuộc, yếu đuối và mỏng dòn của cuộc sống con người. Người vẫn là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, không gây ồn ào, không tỏ ra hào nhoáng (x. Mt 12,15-21).
* Dụ ngôn 1: “Cỏ lùng” (24-30)
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng muốn giúp chúng ta hiểu đúng đắn hoàn cảnh này và ngăn cản chúng ta rút ra những kết luận vội vã. Chúng ta không được chỉ nhìn vào ngày hôm nay, và khép mình lại trong khoảnh khắc hiện tại. Dụ ngôn Cỏ lùng có mục đích ấy.
Dụ ngôn Cỏ lùng là một tấn kịch có hai cảnh. Cảnh thứ nhất diễn ra hai nhân vật và hành động đối lập: Trên cùng một mảnh đất, ông chủ và kẻ thù đã gieo hai loại giống khác nhau, lúa tốt và cỏ lùng là loại cỏ ăn hại. Cảnh thứ hai mở ra với sự can thiệp của các đầy tớ: Họ hỏi một câu hỏi thừa là chẳng lẽ ông chủ lại không gieo giống tốt, mà như vậy thì do đâu có cỏ lùng. Câu hỏi không cần thiết, nhất là bởi vì họ không hỏi vì sao có quá nhiều cỏ lùng như thế. Có ai lại ngạc nhiên khi thấy trong một thửa ruộng xuất hiện thứ cỏ không thể tránh được?
Câu trả lời của ông chủ thật đáng ngạc nhiên. Ông biết rõ ràng là kẻ thù đã làm điều đó. Tuy nhiên, có kẻ thù nào lại có ý tưởng đó và lại có đủ hạt giống cỏ lùng mà gieo ngay trong đêm như thế! Nếu họ lén lút gặt lúa chín hoặc đốt cánh đồng, thì còn dễ hiểu hơn. Đàng khác, gợi ý của các đầy tớ là nhổ cỏ lùng cũng dễ hiểu, vì người ta vẫn làm như thế. Vậy mà ông chủ lại không đồng ý, ông bảo: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (c. 30). Như thế, bài dụ ngôn không muốn mô tả cách làm ruộng thông thường.
Mọi chuyện trở nên rõ ràng khi đến cuối. Các thợ gặt, chứ không phải là các đầy tớ đã đến hỏi, trước tiên sẽ thu gom cỏ lùng, bó thành bó mà đốt đi. Thông thường người ta làm cách khác: cỏ lùng chưa được nhổ đi sẽ bị thợ gặt quẳng trên đất, sau đó được thu gom lại cho gà ăn hoặc để đốt đi.
* Dụ ngôn 2: “Hạt cải” (31-32)
Bằng dụ ngôn tiếp theo, Đức Giêsu mời độc giả quan tâm đến sự tương phản giữa hạt cải lúc đầu và cây to ở hồi kết thúc. Hạt cải là một thứ bé nhỏ và không đáng ai để ý, nhưng sẽ không cứ ở trong tình trạng nhỏ bé mãi; nó sẽ phát triển nhiều và mọi người phải nhìn nhận nó. Một chi tiết lạ: người nọ gieo “(chỉ) một” hạt cải trong ruộng/cánh đồng. Hẳn chúng ta nhớ lại bài dụ ngôn trước (13,24), nhưng ở đây rõ ràng không phải là vấn đề gieo và gặt, mà là vấn đề đặc tính của cây cải mà Đức Giêsu muốn vận dụng để giới thiệu Nước Trời.
Chuyện xảy ra cho Nước Trời cũng như vậy: khởi đầu trong tình trạng bé nhỏ, khiêm tốn; nhưng kết cuộc sẽ là một kết quả đầy sức thuyết phục. Dụ ngôn này là một lời “loan báo” đầy sức an ủi và khích lệ cho những ai chưa thấy các nỗi niềm chờ mong thiên sai được thể hiện nơi công trình của Đức Kitô.
* Dụ ngôn 3: “Men” (33)
Dụ ngôn về men lấy lại bài học của dụ ngôn trên. Hình ảnh “men” lấy từ nhà bếp. Bà nội trợ có thể mua men hoặc tự làm lấy. Đây là sự tương phản giữa phần khởi đầu nhỏ bé và khối lượng bột to lớn ở cuối. Khởi đầu với một chút men, không mấy ai để ý; nhưng trong đó đã chứa đựng tất cả sức bung mở trong tương lai. Như men đã được “giấu ẩn” trong bột, Nước Thiên Chúa lúc khởi đầu là một thực tại không ai thấy; chỉ sang giai đoạn thứ hai, ta mới thấy được sức mạnh của chút men ấy. Sự nhỏ nhoi khiêm tốn của chút men khiến làm ta không ngờ tới tác động của nó trên khối bột; đó cũng sẽ là tác động của Nước Thiên Chúa trong lòng nhân loại. Cũng như tình trạng nhỏ bé là một điều kiện quan trọng để hạt cải phát triển (c. 31), tình trạng giấu ẩn, hòa trộn với bột là điều kiện thiết yếu để cho men có thể tác động.
Động tác “vùi” (“giấu”) men vào trong bột hẳn muốn gợi ý đến tình trạng ẩn giấu của chân lý. Tình trạng ẩn giấu của sự thật trong các dụ ngôn (c. 35) và tình trạng ẩn giấu của kho báu trong ruộng (c. 44) tương ứng với men bị “vùi/giấu”. Hội Thánh có nhiệm vụ vén mở cho thấy chân lý giấu ẩn bằng lời nói và việc làm (10,26-27; x. 5,13-16). Khi làm như thế, Hội Thánh làm cho thế giới “dậy men”.
* Tại sao nói bằng Dụ ngôn? (34-35)
Tác giả Mt cắt ngang diễn từ các dụ ngôn bằng cách đưa vào một “bản tóm tắt” hoạt động rao giảng của Đức Giêsu. “Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (c. 34). Câu văn này được TM Mc dùng để kết thúc “phân đoạn” các dụ ngôn (x. Mc 4,33-34); được đưa vào trong văn cảnh Mt, ta không hiểu rõ lý do bao nhiêu. Rất có thể tác giả Mt đưa câu ấy vào đây để ngưng một chút trong diễn từ dài về các dụ ngôn và để đào sâu những nguyên do thần học đã đưa Đức Giêsu đến chỗ chuộng ngôn ngữ dụ ngôn hơn là ngôn ngữ thông thường (x. c. 11). Sau đó, câu 35 với hai vế song song (c. 35b và 35c) giúp hiểu rằng mục đích của Đức Giêsu là trình bày những gì dược giấu kín. Cũng như ở 13,14-15, ở đây lại xuất hiện mối bận tâm biện giáo của Mt, đó là xác nhận thể văn dụ ngôn bằng một chứng từ Kinh Thánh. Lần này ngài trích Tv 78,2, trong đó mầu nhiệm tạo dựng được kể dưới dạng các câu bí hiểm. Tác giả Mt coi mọi bản văn Kinh Thánh Cựu Ước có một giá trị ngôn sứ. Rõ ràng Kinh Thánh đã tiên báo là Đấng Mêsia sẽ nói bằng dụ ngôn! Tuy nhiên, dân chúng lại không hiểu những gì Người đã nói. Chỉ các môn đệ mới hiểu, nên bây giờ Người rút về nhà với các ông. Thật ra, dụ ngôn Men là dụ ngôn cuối cùng Đức Giêsu công bố từ trên thuyền cho dân chúng, rồi sau đó Người về nhà và tiếp tục bài giảng với các môn đệ (c. 36).
Vậy dân chúng ở lại bên ngoài. Họ đã làm điều gì xấu khiến Đức Giêsu phải quay lưng lại với họ như thế? Dựa theo ngữ cảnh của Mt 13, thì chúng ta phải nói: họ không làm gì xấu cả. Đây là cách tác giả báo trước những điều sẽ xảy ra trong cuộc sống tương lai của Đức Giêsu. Dân chúng sẽ đưa Đức Giêsu đến thập giá, có nghĩa là họ sẽ liên tục loại trừ các sứ giả cho đến khi loại được cả vị Sứ Giả tối cao.
* Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (36-43)
Đức Giêsu bỏ đám đông đang nghe Người tại điểm này và cùng với các môn đệ về nhà, nơi xuất phát (x. 13,1). Nay Người giảng dạy cho các môn đệ. Đời môn đệ là như vậy: suốt đời, họ phải học với “vị thầy duy nhất” là Đức Giêsu (x. 23,8). Tác giả gọi bài này là “dụ ngôn các Cỏ lùng trong ruộng” (hê parabolê tôn zizaniôn tou agrou) vì bài học nhắm vào điểm này.
Đức Giêsu đã giải nghĩa từng hình ảnh một. Danh mục ở cc. 37-39 chuẩn bị cho phần áp dụng ở cc. 40-43. Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Đến c. 41, ta thấy Con Người chính là vị Thẩm phán trần gian. Người nắm trong tay không những công việc gieo giống, mà cả việc thu hoạch và như thế là toàn thể lịch sử thế giới. Trong TM Mt, Con Người là Chúa tể xét xử, Người tháp tùng Hội Thánh suốt hành trình xuyên qua tình trạng cô đơn, đau khổ, để đi đến sự sống lại. Ruộng là thế gian (chứ không phải là Hội Thánh; Hội Thánh luôn hiện hữu chỉ trong sứ mạng truyền giáo cho thế gian). Hạt giống tốt là con cái Nước Trời (x. 8,12). Chúng ta không biết chính xác “con cái Nước Trời” là ai, nhưng toàn thể TM I cho thấy làm thế nào, thay vì dân Israel, “Dân ngoại” (ethnê) mang hoa trái (x. 21,43) sẽ trở thành “con cái Nước Trời”. Các cỏ lùng là “con cái Ác Thần”. Kẻ thù là ma quỷ, nó vẫn đang hoạt động, như ở 13,19, trong lúc này. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần của cuộc phán xét.
Sau những giải thích chuẩn bị, bây giờ tác giả Mt diễn tả mối quan tâm của ngài; ngài nhấn mạnh trên khía cạnh tiêu cực. Cũng như chủ nhà sẽ thu gom cỏ lùng lại vào lúc gặt và “lấy lửa đốt đi” (x. 3,12), chuyện cũng sẽ xảy ra như thế cho các con cái Ác Thần vào lúc tận thế. Ở đây, trên mặt đất này, các sự việc “trộn lẫn” với nhau: bên cạnh những người tốt, có những kẻ xấu. Sự gần kề này là một chướng kỳ. Các môn đệ trong nhà phải để ý đừng thuộc về “những kẻ làm gương mù gương xấu” (skandala) và “những kẻ làm điều gian ác” (anomia), đang có cả ở bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh.
Thiên Chúa lại không phải can thiệp, ngăn cản những kẻ xấu hành động và chặn đứng tất cả những lối xử sự bất công của họ sao? Đây lại không phải là nhiệm vụ của Đấng Mêsia: tách biệt người lành kẻ dữ và thiết lập những tương quan vĩnh viễn trong sáng sao (x. 3,12)? Chúng ta nhớ đến phản ứng của Giacôbê và Gioan khi cả nhóm không được một làng Samari tiếp đón: “Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9,54). Đức Giêsu dùng dụ ngôn để dạy cho loài người chúng ta biết chấp nhận hoàn cảnh pha trộn này. Người không có nhiệm vụ chia cắt rõ ràng và vĩnh viễn người lành với người dữ. Người quy tụ các môn đệ quanh Người và dạy cho họ biết con đường của Người; như Người, cả họ nữa, họ cũng phải rảo qua con đường ấy trong thế giới này.
Nếu trong cuộc sống trần thế này, vẫn còn tình trạng gần kề, chưa tách biệt, điều đó không có nghĩa là hoàn cảnh này sẽ kéo dài mãi, là làm tốt làm xấu thì cũng như nhau! Đức Giêsu cho biết, số phận của người lành kẻ dữ sau này sẽ hoàn toàn khác nhau. Những người tốt, vì đã ra sức thi hành ý muốn của Thiên Chúa, sẽ được đón vào trong Nước Trời và thuộc về gia đình Thiên Chúa, sẽ được Ngài nhìn nhận là con cái (x. 5,9). Họ sẽ được sống trong ánh sáng và niềm vui chan hòa; chính họ cũng sẽ chói chan hạnh phúc. Những kẻ khác, vì đã không quan tâm đến thánh ý Thiên Chúa, đã đi theo tính ích kỷ và còn muốn lôi kéo người thân cận theo, sẽ bị loại khỏi cộng đoàn này.
+ Kết luận
Xuyên qua hình ảnh cỏ lùng, Đức Giêsu nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với loài người: về phương diện thực vật, cỏ lùng không thể biến thành lúa tốt, nhưng trên bình diện thiêng liêng, kẻ xấu có thể trở thành người tốt, nếu họ được người khác nêu gương sáng, tác động để họ biết vận dụng những ơn lành Thiên Chúa vẫn ban cho họ.
Xuyên qua hình ảnh hạt cải và nắm men, Đức Giêsu cho thấy rằng một tình trạng khởi đầu không nổi rõ không có nghĩa là kết thúc cũng như thế. Chỉ đến cuối, khi cây cải đã lớn lên và bột đã dậy men, người ta mới biết có cái gì ẩn giấu trong hạt cải và men. Cũng thế, Nước Trời (Thiên Chúa) trên mặt đất đang hiện diện, không viên mãn và xán lạn, nhưng trong sức mạnh dồi dào, và sẽ tỏ rõ ra vào lúc kết thúc. Vậy, ai ước ao thuộc về Đức Kitô, cần phải có một tầm nhìn rộng rãi và kiên nhẫn.
Như vậy, Nước Thiên Chúa đã khởi sự với công việc loan báo Tin Mừng, nhưng tình trạng hiện nay còn rất khiêm tốn (chưa đủ thuyết phục) và không rõ ràng (người tốt kẻ xấu đang lớn lên với nhau). Chỉ sau khi đã trải qua một hành trình dài, trong tình trạng tranh tối tranh sáng, Nước Thiên Chúa mới tỏ hiện rõ ràng là một cuộc quy tụ toàn thể vũ trụ vào sống trong bình an của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
– Phương pháp làm việc của con người và Thiên Chúa thật khác nhau. Tiêu chuẩn các đầy tớ nêu ra diễn tả một khát vọng vẫn dày vò các người của Thiên Chúa, như Giêrêmia, Gióp, những người nghèo của Đức Chúa. Gioan Tẩy Giả cũng đã chia sẻ mối bận tâm ấy khi giới thiệu Đấng Mêsia đến sẽ làm việc quyết liệt: như rìu đã đặt sẵn nơi gốc cây (x. Mt 3,10), như nia đã sẵn sàng để rê lúa (x. Mt 3,11; Lc 3,17); một phép rửa trong lửa đang chờ đợi mọi người (x. Mt 3,11; Lc 3,16). Người ta cũng tạo lập những nhóm “những người hoàn hảo” tách khỏi những người khác: đó là những người Pharisêu, “những người tách biệt”, và những người Exêni ở Qumrân, “các con cái ánh sáng”, “những người công chính”. Đây chính là những đầy tớ của ông chủ trong dụ ngôn. Tuy nhiên, vì có hiểu biết và kiên nhẫn vô biên, Thiên Chúa đã và vẫn xử sự cách khác.
-Thiên Chúa không muốn triệt tiêu sự dữ, nghĩa là những kẻ dữ, nhưng muốn họ sống còn và sống chung với những người tốt. Hẳn là Ngài hiểu tính hợp lý trong đề nghị của các đầy tớ, nhưng Ngài đã phải xử sự ngược đời, là vì cỏ lùng sống đan quyện với lúa tốt, nên nếu nhổ cỏ lùng, thì khó tránh được chuyện nhổ cả lúa tốt. Với lại, nếu cỏ lùng không thể thành lúa tốt (về thực vật học), kẻ xấu lại có thể trở thành người tốt (trong đời sống thiêng liêng). Sự hiểu biết và kiên nhẫn của Thiên Chúa là nhằm cứu độ mọi người. Đàng khác, sự xấu và sự thiện đan quyện với nhau tinh vi đến nỗi không dễ gì mà phân tách ra. Thật ra không phải là với những cuộc tiêu diệt mà người ta xây dựng được Nước Thiên Chúa, nhưng là với sự kiên nhẫn và tin tưởng.
-Những gì mà loài người thấy như là một chướng kỳ thật ra lại là một điều bí nhiệm nằm trong chương trình Thiên Chúa: sự bé bỏng và yếu đuối không gây phương hại mà đúng hơn lại tạo điều kiện cho thành công tương lai. Nếu Nước Thiên Chúa trở thành một định chế tự thỏa mãn về mình và hết là một hạt cải, thì Nước ấy thiếu mất điều kiện tăng trưởng. Chỉ khi biết mình yếu đuối, con người cậy dựa vào Thiên Chúa, con người mới nên mạnh mẽ (x. 2 Cr 12,9). Các tín hữu cần phải bỏ các điểm tựa và các duyên cớ trần tục, trở thành nghèo khó, khiêm nhường, yếu đuối, để Họi Thánh có được những đặc tính như Đấng Sáng Lập thần linh muốn cho có.
-Dụ ngôn Men trong bột khiến chúng ta nhớ đến một phương pháp mục vụ mà các sứ giả Tin Mừng đều nhớ: họ được đề nghị sống âm thầm, khiêm tốn, nhỏ bé, để có thể chuyển sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng thế giới và biến đổi thế giới từ bên trong. Một tư tưởng khác đến từ thư 1 Pr 1,1: “Tôi là Phêrô, Tông Đồ của Đức Giêsu Kitô, kính gửi những người được Thiên Chúa kén chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ”. Các Kitô hữu sống tản mác, sống tình trạng diaspora. Trong tiếng Hy Lạp, diaspora là hành động gieo hạt: Vậy các Kitô hữu là hạt giống Thiên Chúa gieo vào trong thế giới, để cuối cùng toàn thế giới trở thành một cánh đồng của Thiên Chúa, mang những hoa quả tốt lành.
CHÚA KIÊN NHẪN VÀ KHOAN DUNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
*Sợi chỉ đỏ :
Mặc dù Thiên Chúa rất mạnh và đầy uy quyền, nhưng Ngài đối xử rất khoan dung với những kẻ tội lỗi để chờ cho họ ăn năn sám hối (bài đọc I : Kn 12,13.16-19). Bởi thế tác giả Thánh vịnh 85 gọi Thiên Chúa là “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung (đáp ca). Ở đời này, người tốt kẻ xấu lẫn lộn. Nhiều người mong Thiên Chúa trừng trị kẻ xấu, nhưng Thiên Chúa khoan dung (Tin Mừng (Mt 13,24-43) vẫn cho chúng có thời gian hoán cải (dụ ngôn lúa và cỏ lùng). Thiên Chúa cũng kiên nhẫn chờ cho những yếu tố tốt dần dần phát huy ảnh hưởng của mình (dụ ngôn hạt cải và nắm men).
– Bài đọc II (Rm 8,26-27) (Chủ đề phụ)
Anh chị em thân mến
Ở đời có nhiều chuyện xấu và nhiều người xấu. Chúng ta không thích, chúng ta muốn dẹp sạch những thứ xấu xa ấy đi. Chúng ta còn cầu xin Chúa dùng uy quyền của Ngài để tiêu diệt chúng. Thế nhưng hình như Chúa không nghe lời cầu xin của chúng ta. Sự xấu và người xấu vẫn còn đó. Tại sao thế ?
Chúng ta hãy để ý lắng nghe Lời Chúa giải thích về vấn đề này, và chúng ta hãy xin Ngài chỉ cho chúng ta một cách sống thích hợp trong cuộc đời lẫn lộn tốt xấu này.
– Tuy bản thân chúng ta đầy khuyết điểm, nhưng chúng ta thường khắt khe với những khuyết điểm của người khác.
– Không ít lần chúng ta nuôi ý muốn làm hại những người có va chạm với mình.
– Có khi chúng ta trách Chúa vì Ngài đã không sớm giải thoát chúng ta khỏi những bất công mà chúng ta gặp phải.
Các chương 10-19 của sách Khôn ngoan chứa đựng những suy tư về cách hành xử của Thiên Chúa qua những biến cố lịch sử. Dân Chúa đã nhiều lần bị kẻ thù làm khổ. Mặc dù cuối cùng rồi Thiên Chúa cũng giải thoát họ, nhưng họ vẫn ấm ức sao Chúa không ra tay sớm, sao Ngài không tiêu diệt chúng cho hết sạch.
Câu trả lời là : những kẻ thù ấy cũng là thụ tạo của Chúa, cũng được Ngài yêu thương. Cho nên mặc dù Ngài có đầy đủ sức mạnh và uy quyền để tận diệt họ, nhưng Ngài chỉ sử dụng sức mạnh đối với kẻ ngoan cố. Còn đối với những kẻ mà Ngài còn hy vọng họ hoán cải thì Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi họ sám hối để được thứ tha.
–Đáp ca (Tv 85)
Tv 85 là lời cầu nguyện của người công chính bị bách hại. Mặc dù thế, tác giả đã thấu hiểu tấm lòng của Thiên Chúa, cho nên một mặt tác giả nài xin “Lạy Chúa, xin nghe lời tôi khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng tôi van nài”, nhưng mặc khác tác giả cũng cầu nguyện cho những kẻ bách hại mình sớm nhận biết tội lỗi của họ, để rồi “Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, họ sẽ thờ lạy Ngài và họ sẽ ca tụng danh Ngài”.
–Tin Mừng (Mt 13,24-43)
– Dụ ngôn lúa và cỏ lùng : dụ ngôn này phản ảnh hai thái độ trái ngược nhau. Thái độ của con người (biểu nhiên nơi các đầy tớ) là bất nhẫn trước kẻ xấu và muốn diệt trừ chúng. Thái độ của Thiên Chúa (chủ ruộng) là kiên nhẫn chờ cho đến thời gian phán xét (mùa gặt) mới ra tay.
– Hai dụ ngôn hạt cải và nắm men : hai dụ ngôn này vừa cho thấy sức phát triển rất mạnh của Nước Trời, vừa nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa : Ngài không nóng vội, nhưng kiên nhẫn chờ cho hạt cải thành cây to và nắm men làm dậy cả thúng bột.
-Bài đọc II (Rm 8,26-27) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô nói đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc cầu nguyện :
– Vì chúng ta yếu đuối không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp, nên Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta cầu nguyện.
– Chúa Thánh Thần ở trong chúng ta sẽ cầu nguyện đúng theo thánh ý Thiên Chúa.
– Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong lòng ta một cách rất diệu kỳ “bằng những tiếng than khôn tả”.
Có lần Liên Hợp Quốc đã chọn nguyên một năm làm “năm quốc tế về lòng khoan dung” để giảm thiểu khuynh hướng bất bao dung ngày càng gia tăng trong nhân loại.
Bao dung là nhân từ, kiên nhẫn chịu đựng những điều xấu của người khác để dần dần tìm cách hoán cải họ. Bất bao dung là đòi trừng trị ngay những người xấu : một người làm gì đó có hại cho ta, ta trả đũa ngay. Do nóng vội, có khi ta không suy nghĩ kỹ xem biết đâu chính ta có gì sai lỗi nên người kia mới cư xử với ta như vậy. Khi người kia bị ta tấn công, họ cũng có thể cho là bị tấn công oan ức nên lại trả đũa ta. Thế là hai bên cứ leo thang. Thực ra có mấy ai hoàn toàn tốt, cũng như có mấy ai hoàn toàn xấu. Thái độ bất bao dung phát sinh từ suy nghĩ cho mình là tốt, hoàn toàn đúng và người ta là xấu, hoàn toàn sai.
Trên bình diện cá nhân và khu xóm, bất bao dung khiến người ta khó sống chung hòa thuận với nhau. Trên bình diện quốc tế, bất bao dung dẫn đến những cuộc chiến tranh khu vực. Mà xung đột và chiến tranh chẳng mang lại ích lợi gì, chỉ toàn gây hại. Chính vì trên thế giới có quá nhiều cuộc chiến tranh khu vực cho nên Liên Hợp Quốc mới thấy cần đề ra một năm quốc tế về lòng bao dung.
Muốn bao dung thì phải biết mình và biết người : biết mình cũng có lỗi lầm, và biết người cũng có những điều tốt. Muốn lấy cái rác trong mắt người ra thì trước hết phải lấy cái xà trong mắt mình đã.
Thiển cận là chỉ thấy gần chứ không thấy xa, chỉ thấy bề ngoài mà không thấy bề trong. Do thiển cận nên người ta bất bao dung, mất kiên nhẫn.
Thiên Chúa có thể bao dung và kiên nhẫn vì Ngài vừa thấy hiện tại vừa thấy tương lai, vừa thấy bề ngoài vừa thấy bề trong.
Nghe bài dụ ngôn “cỏ lùng” hôm nay, có người sẽ lấy làm lạ. Trong cuộc sống, làm gì có một nhà nông nào lại để lúa và cỏ lùng cùng tồn tại trong ruộng mình ! Nhưng dụ ngôn là dụ ngôn, nghĩa là một cách nói ví von bóng gió để làm sáng tỏ một vấn đề.
Vấn đề của dụ ngôn là lành dữ cộng sinh và lòng nhân từ cũng như sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Kinh xưa có câu : “Hỏi kẻ lành là ai, kẻ dữ là ai ?” Chúng ta ưa thích phân biệt lành dữ, chánh tà, trắng đen rõ rệt. Chánh phải loại trừ tà, lúa tốt phải được chăm sóc, cỏ dại phải nhổ đi. Cái lý đo nhiên là vậy. Rất đơn giản. Nhưng cuộc sống không đơn giản như vậy.
Trong cuộc sống, có những lúc chánh tà không phân biệt rõ rệt. Cỏ lùng mọc chung với lúa tốt. Vả lại, cái mà ta gọi là kẻ dữ không giống như cỏ lùng. Cỏ lùng không thể biến thành lúa nhưng kẻ dữ có thể cải tà quy chánh, có thể hoán cải thành người tốt, nếu xã hội biết kiên nhẫn chờ đợi và tạo những điều kiện cho họ. Vả lại, kẻ lành, nếu không giữ mình, không liên tục làm điều lành, cũng có thể trở thành kẻ dữ. Vậy chẳng ai nên tự phong là lúa tốt, rồi loại trừ, lên án anh em là cỏ lùng. Có lần Chúa đã nói thẳng với những người tự phụ : “Tôi nói thật, bọn thu thuế, bọn gái điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông kia đấy !”
Qua bài dụ ngôn, Chúa dạy chúng ta lòng nhân từ, kiên nhẫn, và tin tưởng vào sự lành. Hãy tin rằng sự lành sẽ tuần tự triển khai tốt đẹp, mặc dầu có sự dữ kè bên. Sự lành thậm chí còn có sức cảm hóa được sự dữ. “Kẻ lành” Monica đã cảm hóa được “kẻ dữ” Augustinô và cả hai mẹ con cùng trở nên những vị thánh lớn trong Giáo Hội. (Trích số đặc biệt báo Công giáo và Dân tộc, năm 1998, trang 223-224)
-Người đảng viên quốc xã Schindler
Những ai đã từng xem cuốn phim Schindler’s List hẳn đều ghê tởm vai chính của phim đó, tên là Oskar Schindler, một đảng viên Đức quốc xã, đã từng giết hại rất nhiều người.
Thế nhưng nhiều người đã từng biết ông thì lại ca tụng ông như một ân nhân cứu mạng cho hàng ngàn người khỏi bị Đức quốc xã giết. Thậm chí có người còn nói : “Ông ta là cha, là mẹ và là niềm hy vọng độc nhất của chúng tôi”.
Sự thật là thế nào ? Sự thật, Oskar Schindler không phải là một vị thánh, mà là một con người với nhiều dằng co mâu thuẫn : trước hết ông là một người chồng bất trung đã bỏ vợ và chạy theo một cuộc sống ăn chơi thác loại ; ông cũng là một người công giáo nhưng lại không sống đạo ; ông là đảng viên đảng Quốc xã Đức từng tích cực ủng hộ cuộc chiến tranh do đảng này phát động ; chính ông đã thú nhận rằng ông hy vọng khi chiến tranh thắng lợi thì ông sẽ có hai cái rương đầy vàng ; ông còn hành hạ nhiều người do thái….
Nhưng bên trong ông lại có một con người khác. Đó là một người tốt. Nhiều lần đang cư xử như một người xấu, ông lại hướng về bên trong con người tốt ấy. Thấy những từ nhân bị hành hạ tàn nhẫn, ông không chịu nổi và nhiều lần dám đứng lên bênh vực họ. Hai lần ông đã bị bỏ tù vì những hành động như thế.
Sự thật về Oskar Schindler là như thế : vừa là quỷ dữ vừa là thiên thần, trong lòng ông vừa có cỏ lùng vừa có lúa tốt.
Sau nhiều năm phải sống trong trại tập trung, văn hào Alexandre Solzhenitsyn đã nghiệm ra được những ý tưởng sau :
Tôi đã học được một bài học lớn nhờ những năm bị giam trong tù.
Tôi đã hiểu một người trở thành xấu như thế nào và một người trở nên tốt như thế nào.
Tôi đã dần dần nhận ra rằng đường biên giới phân chia giữa tốt và xấu không nằm giữa các nước hay các giai cấp hay các đảng phái chính trị, mà nằm ngay trong lòng mỗi người.
Ngay trong những trái tim ngập tràn sự ác vẫn còn sót lại một đầu cầu nhỏ nối với sự thiện.
Và ngay trong trái tim tốt nhất của các trái tim vẫn còn tồn tại gốc rễ sự ác.
-Lời cầu nguyện khi đến mùa gặt
Khi đến mùa gặt, rơm rạ bị để qua một bên, trấu bị gió thổi đi, cỏ dại bị quăng vào lửa, và lúa tốt được cất vào kho.
Lạy Chúa, khi đến ngày chết của con, mùa gặt của đời con cũng diễn ra trước mặt Chúa.
Xin bàn tay khôn ngoan của Chúa hãy sàng sẩy và chọn ra những gì đáng giữ lại ; nhưng đối với những gì không đáng giữ lại, xin hãy thổi đi bằng hơi thở nhân từ của Chúa.
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm bất bình và giàu lòng khoan dung. Người luôn kiên nhẫn đợi trông kẻ có tội ăn năn trở lại. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh luôn tạo điều kiện thuận lợi / để kẻ tội lỗi luôn có thể quay về với Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết nhận ra tình thương của Hội Thánh là mẹ chúng ta.
2- Ngày nay / người tốt kẻ xấu vẫn còn sống lẫn lộn ngay trong lòng Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / kiên nhẫn cảm hóa những kẻ tội lỗi / bằng chính tình thương tha thứ của Đức Kitô / Vị Mục Tử nhân lành.
3- Cuộc sống trần gian ngày hôm nay / quyết định số phận mai ngày của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết luôn cố gắng sống bác ái yêu thương / tận tuỵ phục vụ trong khiêm tốn / để trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng cho trần gian / Nhờ đó họ sẽ được Chúa ; tưởng thưởng trong ngày phán xét chung.
4- Ngay trong chính bản thân mỗi người / vẫn hiện diện song song hai khuynh hướng tốt và xấu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn xứ đạo chúng ta / luôn biết chế ngự thói xấu bằng cách cố gắng sống theo Lời Chúa dạy / siêng năng lãnh nhận các bí tích hòa giải và Thánh lễ / đồng thời tuân theo lời giáo huấn của Hội Thánh.
CT : Lạy C, chúng con thường hay xét đoán người khác rất khắc khe mà hầu như quên xét lại chính bản thân mình. Xin giúp chúng con biết can đảm dứt khoác với tật xấu này, để chúng con có thể noi gương Chúa mà sống nhân từ với mọi người hơn. Chúng con cầu xin nhờ…
– Trước kinh Lạy Cha : Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy xin Thiên Chúa là Cha chúng ta dạy chúng ta biết nhân từ như Ngài, biết tha thứ cho anh em như Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
– Sau kinh Lạy Cha : “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an giữa thế gian này còn chen lẫn lúa tốt và cỏ lùng. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…”
Chúng ta sắp trở lại cuộc sống phức tạp : điều xấu điều tốt lẫn lộn, người lành người dữ sát cánh bên nhau. Anh chị em hãy cố gắng thực hành lòng bao dung nhân từ mà Lời Chúa vừa dạy chúng ta.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN-A
DỤ NGÔN CỎ LÙNG, MEN BỘT VÀ HẠT CẢI- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như người kia”: Trong lúc dụ ngôn người gieo giống có thể tóm tắt bằng mấy chữ: việc nảy mầm của Nước Trời sẽ gặp nhiều thất bại đau đớn; thì dụ ngôn cỏ lùng lập tức đi tiếp theo và đặt ngay câu hỏi: các thất bại, các sự chống đối Nước Trời, cái công việc của Thần dữ đó phải chăng không thể bị dẹp bỏ ngay lập tức? Cả hai đều cố gắng đánh đổ lòng nao nức trông chờ Đấng Thiên sai ra tay, dụ ngôn người gieo giống thì bằng cách xác quyết rằng không thể tránh được việc một phần lớn hạt giống bị mất đi; còn dụ ngôn cỏ lùng thì bằng cách khẳng định: đừng hành động trước thời gian, đừng muốn dẹp bô công việc của Thần dữ trước mùa gặt. Xin nhớ là vào thời Chúa Giêsu, sự nóng lòng này đã khiến người ta tin rằng việc giải phóng dân thánh và việc tiêu diệt quân vô đạo sẽ xảy ra ngay lập tức (x. các Thánh vịnh của Salomon và các bản văn Qumrân). Do đó họ không thể nghĩ là có việc chống đối lại Đấng Cứu thế (dụ ngôn người gieo giống) và việc chung sống, lâu dài với sự dữ trong thời Đấng Messia (dụ ngôn cỏ lùng).
(Chú thích về các công thức nhập đề của các dụ ngôn):
Như các dụ ngôn đương thời, dụ ngôn của Chúa Giêsu xuất hiện dưới hai hình thức căn bản:
1/ Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng chủ cách (nominatif) (chủ từ): đó là các câu chuyện đơn giản không có động thức nhập đề, ví như dụ ngôn người gieo giống (“Này người gieo giống đi ra gieo lúa”).
2/ Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng ở dữ cách (datif) (tức từ gián tiếp) tương đương với chữ “Le” trong tiếng Aram. Đa số dụ ngôn của các giáo sĩ bắt đầu với các chữ ấy: MashalLe (người ta hay gặp chẳng hạn: Mashal. Le mélék shé: “Một dụ ngôn. Giống như ông vua kia…”). Ngữ điệu đó là một cách nói rút gọn, hay một lối viết tắt của câu émshol Lekha, Úlashal. Le ma haddabhar dom? Le… = “Tôi muốn kể cho anh một dụ ngôn. Tôi sẽ so sánh sự vật với cái gì? Thì nó cũng giống như… “. Thỉnh thoảng người ta thay thế ngữ điệu dài dòng đó bằng một tiếng dữ cách duy nhất.
Trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu, ta gặp một công thức nhập đề dài ở dữ cách nơi các câu hỏi đi trước dụ ngôn của Mc 4, 30 tắt: “Làm sao mà so sánh Nước Thiên Chúa hay lấy gì mà ví nó được? Thì cũng như…” hoặc của Lc 13, 20t: “Ta sẽ lấy gì mà so sánh Nước Thiên Chúa?”.
Tương ứng với công thức vắn với dữ cách khởi đầu, là các chữ hôs, hôsper, “như” viết ra tiếng Hy lạp là homoiôthêsetai, homoiôthê, homoios estin, “giống như”; trong căn ngữ của 5 công thức này, cũng có cùng một giới từ Aram là “Lc”. Như vừa nói, chữ “Le” này là một lối viết tắt, nên không chỉ được dịch là “giống như song là: “Về… thì cũng giống như…”. Trong nhiều trường hợp, chính nội dung của dụ ngôn buộc ta phải để ý đến lối viết tắt của công thức nhập đề đó, vì công thức này thay đổi điểm ta muốn so sánh. Trong Mt 13, 45, Nước Thiên Chúa rõ ràng là không “giống như người thương gia”, mà giống như “viên ngọc quý”; trong Mt 25, 1, nó không “giống như mười trinh nữ” mà giống như bữa tiệc cưới; trong 22, 2 nó không “giống như vua kia” mà giống như các cuộc vui ở tiệc cưới; trong 20,1 Nước Thiên Chúa không “giống như gia chủ” nhưng giống như việc trả lương; trong 13, 24, nó không “giống như ‘ người kia gieo giống tốt trong ruộng mình”, mà giống như mùa gặt hái; trong 18, 23 nó không “giống như ông vua trần thế” mà giống như việc tính sổ. Trong mọi trường hợp trên, ta tìm ra điểm so sánh đích thực khi nhớ rằng: dưới thành ngữ Hy lạp homoios estin “giống như”, tiềm ẩn một chữ “Le” Aram, mà ta phải dịch là: “Về…. thì cũng giống như..”.
Nhận xét này cũng có giá trị đối với các trường hợp khác trong đó ta thường không thấy lối viết tắt của công thức nhập đề. Không thể dịch Mt 13,31 là “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải…” mà phải dịch: “Về Nước Thiên Chúa thì cũng giống như hạt cải… “, vì chẳng phải với hạt cải mà Nước Thiên Chúa được so sánh, nhưng là với cây to lớn phát sinh từ hạt cải và làm chốn nương náu cho chim trời. Ở trong Mt 13, 33 cũng thế: Nước Trời không “giống như men” mà giống như bột dậy lên (coi Rm 11,16) và trong Mt 13,47 Nước Trời không được ví với chiếc lưới đánh cá, nhưng như việc lựa lọc cá bị mắc vào lưới.
“Hãy để chúng mọc lên cả hai cho đến mùa gặt”: Trong suốt cả dụ ngôn, ông chủ luôn tỏ ra tự tín. Khi được hỏi về nguồn gốc cỏ lùng, ông không chút ngần ngại tuyên bố: cỏ lùng do kẻ thù gieo. Ông cũng tỏ ra tin tưởng vào giá trị hạt giống của ông, và biết chắc cỏ lùng sẽ không tài nào thắng thế. Kể cũng lạ khi ở đây hầu như không biết đến nguy cơ làm chết ngạt hạt giống tốt, cái nguy cơ đã được tỉ mỉ mô tả ở dụ ngôn người gieo giống trước (13,7).
“Một hạt cải”: Tính cách nhỏ bé của hạt cải được đưa vào ngạn ngữ Palestine. Nhưng cây cải lại cao đến 2 hay 3 mét, đứng quanh vùng có thể thấy. Tuy nhiên dù cao lớn (arbuste), nó cũng không phải là cây (arbre) như dụ ngôn nói.
“Thành một cây”: Trong Cựu ước, cây có chỗ cho chim trời nương náu là một hình ảnh thường dùng để chỉ một vương quốc hùng mạnh bảo đảm được an ninh cho thần dân mình (Ed 17, 23; 31, 6; Đn 4, 9; 11, 18). Trong văn chương khải huyền, giáp sĩ hay targum, chim tượng trưng cho dân ngoại đến từng lũ, từng đoàn. Ở đây Mt nhấn mạnh đặc tính cánh chung của dụ ngôn (nhưng điều này không loại bỏ lối áp dụng có tính cách Giáo Hội học) khi phóng đại thân cây rau lớn (arbuste) thành một “cây to (arbre).
“Bà nọ lấy, vùi…”: dịch sát chữ: che dấu”, hạn từ này đưa về ý tưởng chủ yếu của cả phần này.
“Ba thúng bột”: Đây là một khối lượng bột rất lớn, trên 39 lít, nghĩa là khoảng 60-70 ký lô. Con số ba thúng bột này. Khác hẳn lấy từ St 18. 6 (x.Tl 6, 19 và 1 Sm 1, 24) là quá phóng đại vì lượng bột đó làm đủ bánh nuôi trên 150 người ăn! Viễn ảnh dị thường của bữa ăn này xem ra muốn đưa ta nghĩ đến bữa tiệc cánh chung. Ở dây Matthêu nhấn mạnh tới hiệu lực của men, thứ có một sức mạnh lạ lùng như vậy. “Cho đến khi tất cả dậy men”: hiệu lực của Nước Trời lan rộng đến toàn thể sức mạnh của nó thật vô song, dù bề ngoài xem ra yếu ớt.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói hết thảy các điều ấy với dân chúng, và Người không nói với họ điều gì mà lại chẳng dùng dụ ngôn”: Trong văn mạch Mt, phải giới hạn nghĩa của chữ “hết thảy” vào lời giảng dạy của Chúa Giêsu về Nước Trời. Vì không phải bao giờ Người cũng nói bằng dụ ngôn; nhưng khi dạy về mầu nhiệm Nước Trời, thì Người luôn dùng thể văn ấy. Phần thứ hai của câu ngụ ý rằng Chúa Giêsu, để dạy về Nước Trời cho quần chúng, đã cẩn thận nói bằng dụ ngôn, hầu tránh mọi hậu quả tuyên truyền có tính cách thiên sai chủ nghĩa.
“Sấm ngôn của ngôn sứ”: Matthêu bảo là một ‘ngôn sứ’ nhưng lại trích dẫn một tác giả Thánh vịnh, Asaph. Có thể ông nhớ Asaph ấy đã được gọi là “ngôn sứ” trong 2 Sk 29, 30; nhưng đúng hơn, có Iẽ ông quan niệm tất cả các sách Cựu ước đều có giá trị sứ ngôn… Thế mà sách thánh đã tiên báo Đấng Messia sẽ dùng dụ ngôn mà phán dạy.
“Con cái của Nước… con cái quỷ dữ ”: Cách phân chia nhân loại thành hai khi đối nghịch nhau đây rất thông dụng trong Do thái giáo đương thời. Ta thường gặp lối phân chia đó trong các văn tập của Qumrân. Chỉ khác một điều là: đối với Qumrân, nói kẻ lành đều ở trường phái của họ. Tất cả kẻ dữ là những người bên ngoài; còn ở đây cá hai đều sống lẫn lộn, và các môn đồ không có quyền tách rời họ ra.
“Cũng như người ta nhặt cỏ lùng…”: Trong dụ ngôn, trọng tâm nằm trên quyết định của ông chủ là để cỏ lùng mọc chung với giống tốt, trong lúc ở phần giải thích lại là đề tài mùa gặt tương lai, là số phận chung cục của cỏ lùng và lúa: trên 7 câu giải thích, đã có tới 4 câu nói về mùa gặt tương lai. Có lẽ Matthêu đã lan rộng một kết luận nguyên thủy vừa phải hơn của Chúa Giêsu, để đánh đổ một niềm vững tin tự đại có khuynh hướng lan tràn giữa Kitô hữu thời ông: việc gia nhập Giáo Hội chưa phải là được cứu độ cách dứt khoát; còn có cuộc phán xét sau cùng sẽ vô cùng khốc liệt đối với các Kitô hữu xấu xa.
KẾT LUẬN
Được bắt đầu với việc rao giảng Lời, Nước Trời thoạt tiên rất nhỏ bé khiêm hèn. Nó không áp đặt trên mọi tạo vật một cách hách dịch và ngay tức thời. Tình trạng hiện nay của nó còn hỗn tạp hồ đồ: kẻ lành người dữ đều triển nở trong nó. Và chỉ vào cuối cuộc hành trình dài đằng đẵng? được theo đuổi một cách âm thầm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Nước Trời âm ỉ quy tụ toàn thể vũ trụ trong Hòa bình của Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Người môn đồ Chúa Kitô sẽ chấp nhận hiện tại dễ dàng hơn nếu biết tin tưởng như đã nói vào tương lai. Họ biết rõ rằng các bước đầu thật khiêm tốn như thế (Giáo Hội luôn luôn là thiểu số trong trần gian) chỉ là các dấu chỉ bất tương xứng vai công trình một ngày kia sẽ hoàn tất. Họ hoàn toàn tin tưởng ở Thiên Chúa. Thiên Chúa há không thể biến sỏi đá thành con cái Abraham được sao, nghĩa là Ngài không thể từ hư vô mà gầy dựng nên một dân tộc, một dân cho riêng Ngài được sao (Mt 3, 9)? Cái nhìn của Thiên Chúa khác với cái nhìn của người đời các vật tầm thường đối với Ngài lại là to tát, và cái lớn lao trước mặt người đời đôi khi lại làm Ngài ghê tởm.
2) Người hoàn toàn phó thác cho Nước Thiên Chúa, để Nước Chúa biến đổi, tái dựng mình, thì đúng là men đích thực của môi trường họ sống. Cái sinh lực liềm tàng trong họ cũng xâm nhập vào mọi thứ chung quanh và lan tràn đến hết mọi người. Tình yêu ở trong một con người luôn chiếu dọi cho những kẻ chung quanh.
3) Hạt giống tốt đã được gieo đầu tiên và ở khắp nơi, thì hạt lúa tốt sẽ được gặt hái sau cùng và khắp mọi chốn. Cỏ lùng không phải là nguyên thủy và cùng đích, chẳng phải là alpha và omêga:- Alpha và Omêga chính là hạt lúa tốt vậy.
4) Cái nhìn của Kitô hữu về thế giới, về tha nhân phải là một cái nhìn tích cực. Không phải vì ta có mắt tốt hơn những người khác để phân biệt cỏ lùng với lúa tốt hay bàn tay tài khéo hơn để tách rời thứ này khỏi thứ kia. Nhưng vì cái nhìn của ta là một cái nhìn đức tin: ta biết hạt giống hôm nay đang triển nở mà không gì ngăn được vì ta tin vào Chúa Giêsu Kitô; nhưng niềm xác tín này ta được không phải nhờ một phân tích “khoa học” về lịch sử đâu. Ta chẳng thấy hạt giống tốt ưu thắng và sẽ không bị chết ngạt, nhưng ta tin diều đó. Niềm tin làm ta hy vọng mãnh liệt vào con người, sự vật, biến cố.
5) “Óc kỳ thị” không chết trong ta đâu. Ta vẫn luôn bị cám dỗ lên án hay loại trừ những kẻ xem ra chẳng có cùng quan niệm như ta về chân thiện mỹ.
6) Ta thường đặt câu hỏi như các đầy tớ trong dụ ngôn: Từ đâu mà có biết bao sự dữ trong trần gian? Tại sao thế giới không nên tốt hơn sau 20 thế kỷ Kitô giáo? Vì sao Giáo Hội vẫn luôn có những khuyết điểm sờ sờ như vây? Chúa Giêsu trả lời bằng cách cho thấy tính cách hàm hồ không thể tránh được của toàn thể tạo vật đang trên đường tiến về Nước Trời. Một tính cách hàm hồ phổ quát, lan tới các tập thể cũng như cá nhân, Giáo Hội cũng như tín hữu. Điều đó có nghĩa là chân, thiện, mỹ không hiện hữu ở tình trạng hiển nhiên, y như điều sai quấy, xấu xa. Không một ai, không một tập thể nào hoàn toàn phù hợp với Nước Trời, nhưng cũng chẳng ai xa lạ, chẳng bị khai trừ khỏi Nước ấy.
7) Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn: Ngài chịu đựng nhiều thế kỷ tội lỗi vì viễn ảnh rộng lớn của Ngài là ban ơn cứu độ cho ta (Rm 3, 26). Ngài ghét tội lỗi, nhưng yêu kẻ biết thống hối ăn năn dù tội lỗi đến đâu (Rm 2, 4). Nếu Thiên Chúa không kiên nhẫn, bây giờ ta ở đâu rồi?
8) Đức kiên nhẫn ấy cũng cần cho con người. Do đấy có nhiều yêu sách xem ra mâu thuẫn nhưng phải biết dung hòa: không dung túng sự dữ, song vẫn kính trọng nhân vị và khả năng hoán cải của tội nhân, vẫn bảo vệ các tâm hồn ngay chính khỏi nhiễm lây gương xấu, tà đạo, thái độ dửng dưng tôn giáo. Do đó ngay từ nguyên thuỷ, ta thấy Giáo Hội khi thì nghiêm khắc (1Cr 5, 3- 5) lúc lại thông cảm (1 Cr 5, 9-10) tùy hoàn cảnh cụ thể của các tâm hồn. Hai thái độ ấy đều chính đáng và cần thiết, dù theo một lường độ khó mà xác định. Chúng cũng đề phòng ta khỏi bị ảo tưởng đạt được những trạng thái dứt khoát rõ ràng ở đời này. Một cộng đoàn Kitô hữu lý tưởng trong đó chỉ có các thánh, chỉ gồm người công chính là một điều hão huyền. Nếu đường ranh giới phân chia sự dữ điều lành khá rõ ràng, thì lại rất lu mờ giữa kẻ lành người dữ (lấy quyền nào mà cho mình là “tốt”?). Vì kẻ sống trong tội lỗi hôm nay, mai ngày có thể trở nên một thánh Augustinô hay một Charles de Foucauld.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- A
TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Dụ ngôn cỏ lùng là một trong những dụ ngôn hiếm hoi được chính Chúa giải thích rõ ràng. Giải thích của Chúa giúp ta có những hiểu biết hữu ích cho đời sống đạo.
Dụ ngôn nhắc nhớ ta về sư hiện diện của ma quỷ. Ma qui hiện hữu. Chúng luôn có mặt để gieo rắc sự xấu. Chúa đã chuần bị những thửa ruộng tốt. Những thửa ruộng đó là thế giới, là Giáo hội, là tâm hồn mỗi người. Chúa đã gieo những hạt giống tốt. Hạt giống đó là Lời Chúa, là ơn Chúa, là những thiện chí, những ý hướng cao đẹp trong tâm hồn con người. Nhưng ma quỷ lén gieo vào những hạt cỏ xấu.
Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hoà bình. Đẹp biết bao nếu mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng buồn thay, cánh đồng hoà bình tươi xanh đã bị những ngọn cỏ tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sự thế giới được ghi bằng những trang buồn vì không ngày nào không có chiến tranh.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần xây dựng. Nhưng buồn thay, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc huỷ hoại, tha hoá, nô lệ hoá con người.
Ngay trong bản thân mỗi người, không thiếu những sáng kiến, những hoạt động ban đầu xem ra tốt đẹp, nhưng dần dà vị vẩn đục vì những biến tướng nặng mùi trần tục như khoe khoang, tìm hư danh, tìm lợi lộc.
Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt.
Tuy nhiên, dụ ngôn cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa. Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới thu lúa cùng với cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn đợi chờ vì hi vọng những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa bao dung tha thứ không nỡ phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày nên tốt. Nếu phạt ngay nhưng người tội lỗi thì ta đâu còn cơ may được chiêm ngưỡng ông thánh trộm lành. Nếu Chúa thẳng tay thì ta đâu có thánh nữ Madalêna, Tông đồ của các Tông đồ, thánh Augustinô, Tiến sĩ lừng danh, thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại. Nếu Chúa chấp tội thì bản thân ta sẽ là người bị phạt đầu tiên, vì trong ta cũng đầy những tội lỗi, những sự xấu. Trong tâm hồn ta cỏ lùng vẫn mọc xen với lúa tốt.
Sau cùng, dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Có sự lành để ta hiểu biết và yêu mến sự tốt lành của Thiên Chúa. Có sự dữ để ta gớm ghét tránh xa và càng thêm gắn bó với sự lành. Có sự lành để ta được hưởng niềm an ủi ngọt ngào của Chúa. Có sự dữ để ta phấn đấu vượt qua, chứng minh lòng trung tín của ta với Chúa. Có thuận lợi tiến bước trên đường thánh thiện. Có khó khăn để ta rèn luyện thêm đức.
Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Thật vậy, việc cấm đạo là sự dữ. Nhưng nhờ đó mà Giáo hội có được những chứng nhân anh hùng. Đau khổ và bệnh tật là những khiếm khuyết trong cuộc sống, nhưng lại giúp con người được thông phần đau khổ với Chúa. Thánh Nữ Têrêsa đã nhìn thấy tất cả là hồng ân của Chúa. Sự lành cũng như sự dữ. Hạnh phúc cũng như đau khổ. Thành công cũng như thất bại. Tất cả đều góp phần rèn luyện, vun đắp và thăng tiến người lành.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi gặp những người xấu trong xứ đạo, trong hội đoàn, bạn có muốn khai trừ người đó ngay tức khắc không?
2) Trong con người bạn có những khuyết điểm, những bệnh tật, bạn có phấn đấu khắc phục những khuyết điểm, vượt qua bệnh tật để thăng tiến bản thân không?
3) Chúa đã khoan dung, kiên nhẫn đợi chờ bạn ăn năn hối cải. Bạn có biết kiên nhẫn với người khác?
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- A
NƯỚC TRỜI ĐƯỢC VÍ NHƯ…- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty
Đoạn Tin Mừng dài hôm nay chỉ có một chủ đề duy nhất: qua một số hình ảnh dễ hiểu Nước Trời được phác lên những nét đặc thù mà, thoạt tiên xem ra rời rạc nhưng nhìn kĩ chúng bổ sung cho nhau cách hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên để hiểu sâu rộng hơn, tôi thiết nghĩ cần phải đầu tư đội chút suy nghĩ. Hai dụ ngôn đầu chẳng hạn, nhiều lần ta được giải thích: sức mạnh của Nước Trời được ví như hạt cải, tuy nhỏ bé nhưng lại mọc thành cây lớn, như dúm men ít ỏi mà làm cho cả ba thúng bột dậy men, vì đó là sức mạnh của chân thiện mỹ, mà chân thiện mỹ thì không gì có thể cưỡng lại được. Điều này nếu có đúng thì chỉ trên suy luận lô-gic, thực tế cho thấy: ngay cả giữa các tu sĩ nhiều người còn nghi ngại về sức mạnh của gương mù gương xấu hơn là tin tưởng vào sức mạnh của gương lành hay nhân đức. Ngay cả một Giáo Hội rất tự hào về các chân lý mình sở đắc mà nhiều khi cũng còn run sợ, lép vế trước các thói đời, lạc thuyết… Sức mạnh vô địch của Nước Trời, theo Đức Giêsu, chắc phải hệ tại ở một điều gì khác lắm…
Dụ ngôn thứ ba thì Đức Giêsu kể, rồi lại được chính Người giải thích nhằm đáp ứng yêu cầu của các môn đệ. Nhiều người cho rằng dụ ngôn này nói về tình trạng chịu vậy của người lành phải sống chung với kẻ dữ chờ ngày phán xét; nếu quả thật là thế thì ý nghĩa của nó đi ngược hẳn lại, và triệt tiêu hai dụ ngôn trên. Chắc chắn không thể thế được! Hơn nữa nhiều người trong chúng ta vẫn hiểu là Đức Giêsu ví von Nước Trời giống như hạt cải, như nhúm men…, thậm chí nhiều cuốn Kinh Thánh còn đặt tiêu đề ‘dụ ngôn cỏ lùng’ dễ gây hiểu lầm (Nước Trời giống như cỏ lùng?). Thực ra các dụ ngôn đều là những câu chuyện, và ở đây Nước Trời được ví như ba hành động chứ không phải ba vật thể. Riêng dụ ngôn thứ ba (lúa tốt và cỏ lùng) Nước Trời được ví với thái độ của chủ ruộng: ông chấp nhận tình trạng sống chung tốt xấu vì một mục đích nào đó cao cả hơn. Nếu ta đọc cả ba dụ ngôn và hiểu ba hành động trong thế liên hoàn, có thể ý nghĩa sẽ hiện rõ hơn chăng? Tôi thử suy diễn:
Nước trời chính là lòng từ nhân của Thiên Chúa và thực tại trong đó lòng thương xót của Ngài ngự trị và hành động. Lòng nhân này chấp nhận, và thực tế còn như ‘mong’ cho có sự dữ, ‘đòi’ phải có sự tội trên trần gian này, mọi nơi và qua mọi thời đại (kể cả trong Hội Thánh, trong đời tu… và đương nhiên nơi từng tâm hồn…) Felix culpa là thế!; ‘Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt!’ Yếu đuối và tội lỗi không hề làm cho tình yêu thương xót này bị giảm sút hay thu hẹp lại. Thoạt nhìn lòng nhân ái có vẻ âm thầm và rất mực khiêm tốn, nhưng chính trước tội lỗi và sự dữ nó lại có cơ càng lớn mạnh và bùng nổ mạnh mẽ hơn. ‘Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải (nhỏ bé) người nọ lấy gieo trong ruộng mình…như nắm men vùi vào ba thúng bột…’ Và trong chính cái môi trường tội lỗi và thấp kém đó (thửa đất đen hay mấy thúng bột chai lì) lòng thương xót càng chứng tỏ được cái sức mạnh cải tạo và biến đổi vô địch của nó, ‘cho đến khi tất cả bột dậy men’.
Lấy trường hợp thầy thuốc chẳng hạn, một hình ảnh mà Đức Giêsu đã từng sử dụng để nói về chính mình. Nghề của thầy thuốc cần, và gần như đòi, phải có người đau yếu bệnh tật. Người ta không gởi bác sĩ tới nơi toàn người khỏe mạnh, lành lặn. Bệnh càng nhiều và con bệnh càng hiểm nghèo thì tay nghề của bác sĩ, không những không mai một, mà ngược lại còn phát huy và nổi danh hơn. Một bác sĩ được gởi tới bệnh viện chính là để chữa bệnh cho thật nhiều bệnh nhân, nhất là các ca bệnh nặng nhất… cho tới khi họ hoàn toàn bình phục có thể về nhà. Nước Trời của Đức Kitô là như thế đó và kế hoạch của Thiên Chúa là như vậy!
Cụ thể hơn, ta thử nhìn vào trường hợp cha sở họ Ars – thánh Gioan Vi-a-nê, một hình ảnh mà tôi đã nhiều lần chiêm ngắm trong sứ vụ linh mục của mình. Sứ mệnh mục tử tìm chiên lạc của ngài gần như đòi ngài phải được phái tới một họ đạo hẻo lánh, khô khan, nguội lạnh như cái họ đạo Ars thời đó. Và chính vì được gởi tới cái họ đạo tội lỗi bê tha này mà từ một linh mục tầm thường vô danh, Gio-an Ma-ri-a đã trở nên lừng danh thánh thiện; và vì ngài đã trung thành ở lại phục vụ chứ không trốn chạy (như ngài đã từng muốn làm) mà họ đạo Ars và cả vùng lân cận dần dần được cải hóa. Có như thế, Gioan Maria Vi-a-nê mới nối bước theo chân Thầy Giêsu, mới xứng danh là linh mục của Nước Trời – linh mục của Giêsu cứu độ, của Thiên Chúa nhân hậu và xót thương. Chính vì thế mà, nếu muốn trở thành một linh mục (hay Kitô hữu) của Nước Trời, tôi không thể khác hơn… là chấp nhận sống giữa một trần gian tội lỗi, để có nhiều người nhận ra rằng: ‘Nước Trời đang ở giữa anh em’.
Lạy Thiên Chúa là chủ của Nước Trời đang được thể hiện nơi trần gian, xin biến đổi con nên linh mục của Nước Trời, để con không phàn nàn kêu trách tội lỗi của người đời, không khó chịu, chán nản trước các lầm lỗi của chính mình, cũng như của các anh em con. Ngược lại xin cho con biết dâng lời cảm tạ vì nhờ đó con càng được đồng hành với lòng thương xót Chúa, được tiến bộ và lớn mạnh lên trong sức mạnh yêu thương, và được tham gia vào hiệu năng cải hóa và biến đổi mà chỉ có lòng thương xót thập giá mới có thể thực sự mang lại. Amen.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- A
GIỐNG TỐT– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tác giả Sách Khôn Ngoan diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa với dân Do-thái trong cuộc xuất Ai-cập như là biểu tượng của niềm hy vọng tràn dầy. Sự khôn ngoan thúc đẩy con người tìm hiểu về Thiên Chúa và vai trò của con người trong chương trình sáng tạo. Sách Khôn Ngoan luận bàn đến nguyên lý nhân qủa, nguyên nhân và hậu qủa để phân biệt giữa tốt và xấu. Mọi sự xuất hiện trên đời đều có lý do riêng để được tồn tại. Thời gian là ân huệ giúp mọi loài phát triển theo ý định nhiệm mầu. Sự khôn ngoan diễn tả sự liên hệ thiết yếu giữa Thiên Chúa và loài người. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn loài trong vũ trụ và con người có trách nhiệm trong việc bảo trì và làm cho sinh xôi nẩy nở về mọi phương diện. Đời sống con người là một lời mời gọi tích cực hướng tới sự viên mãn tích cực. Đau khổ của đời sống mang một ý nghĩa riêng biệt. Chương trình quan phòng của Thiên Chúa vượt trên sự điều khiển của con người. Trung tín với mạc khải về luật tự nhiên là sự khôn ngoan đích thực cao quí hơn sự hiểu biết nông cạn của trí khôn con người.
Thiên Chúa tạo dựng và điều khiển vũ trụ muôn loài. Thiên Chúa là tình yêu. Người muốn chia sẻ tình yêu với các loài thụ tạo, nhất là loài người. Người quan tâm cách đặc biệt tới con người. Người ban cho con người có hồn xác, tự do, trí khôn, ý chí và sự thông minh để con người nhận biết Thiên Chúa và đồng chủng. Thiên Chúa là Cha nhân từ đối xử đại lượng với mọi người: Vì chưng, sức mạnh của Chúa là nguồn gốc sự công minh và vì Người là Chúa mọi sự, nên tỏ ra khoan dung với mọi người (Kn 12, 16). Người tạo dựng con người để chung phần sự sống và hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Cuộc sống có thử thách và được tự do chọn lựa. Chúa tạo cơ hội cho con người nhận biết chân lý và đường nẻo ngay chính để sống an lạc: Người dậy dỗ dân Người rằng: Người công chính, phải ăn ở nhân đạo, và Người làm cho con cái Người đầy hy vọng rằng: Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối (Kn 12, 19).
Vì thân xác nặng nề và yếu đuối mỏng dòn nên con người dễ sa ngã vào đường lầm. Từ bẩm sinh, con người tốt lành. Nhân chi sơ, tính bản thiện. Khi sống chung đụng với người khác trong xã hội, mầm mống sự dữ và thói xấu nẩy sinh. Sự khao khát thèm muốn trong con người không có cùng. Khi có cơ hội đến là những hạt giống xấu trong tâm sẽ đua nhau phát triển. Hạt giống của sự tham lam, bất công, kiêu căng, hà tiện, giận dữ, ghen tương và thù ghét giống như cỏ lùng tự do sinh xôi nẩy nở. Đôi khi còn lớn mạnh hơn, bởi vì được tưới gội bằng ước muốn và lòng tham vô đáy. Từ đó sinh ra biết bao chứng hư tật xấu. Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn về lúa và cỏ lùng để diễn tả về tình trạng của đời sống con người. Lúa là hạt giống tốt như các nhân đức và việc tốt lành. Cỏ lùng là hạt giống xấu được gieo vào chen lẫn giữa lúa để dành sống. Người chủ ruộng kiên tâm chờ đợi cho đến mùa thu hoạch mới diệt trừ. Trong dụ ngôn, khi đầy tớ xin ông chủ nhổ cỏ lùng, Chủ nhà đáp: Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng (Mt 13, 29).
Trong thực tế của việc cầy bừa ruộng rẫy, thường các chủ gia chăm bón ruộng lúa rất cẩn thận. Vào mùa lúa, để bảo vệ cây lúa phát triển tốt, các chủ gia phải chuẩn bị ruộng đất cẩn thận, rồi bơm nước, bỏ phân, diệt rầy, giết ốc và xịt thuốc cỏ. Vì nếu để cỏ mọc um tùm, lúa sẽ bị chen lấn còi cọt không thể sinh hoa kết qủa tốt. Nhưng theo cách nhìn của chủ ruộng trong dụ ngôn, mang một ý nghĩa khác sâu xa hơn. Lúa và cỏ lùng được ví như nhân đức và tính hư tật xấu của con người. Người xấu hay người tốt luôn có cơ hội sống để phát triển và hoàn thành sứ mệnh. Không ai bị cắt đứt dọc đường. Biết rằng không có ai hoàn toàn thánh thiện và cũng không có ai hoàn toàn xấu xa tội lỗi. Mỗi con người đều ẩn dấu cái tốt, cái xấu trong người. Mỗi ngày sống là một kinh nghiệm giúp con người nên tốt hơn. Vì thế, chủ nói: Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta (Mt 13, 30).
Sự kiên nhẫn mong chờ của chủ gia là phút cuối cùng. Chúng ta biết cỏ lồng vực sẽ sinh hạt lồng vực, không thể thay đổi, nhưng tâm con người có thể thay đổi để trở nên tốt hơn. Môi trường cuộc sống rất quan trọng để giúp cải hóa. Người ta thường nói: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Đúng vậy, khi chúng ta kết bạn với những kẻ xấu, nhóm băng đảng, người nghiện ngập, hút sách, bài bạc, nhậu nhoẹt, trước hay sau, chúng ta cũng bị nhiễm độc. Người ta thường nói rằng: Bạn có thể cho biết rằng bạn thường chơi với ai, tôi sẽ cho biết, bạn là người thế nào. Con người chúng ta rất dễ thay đổi, tập sống sung xướng tiện nghi dễ hơn là sống kham khổ. Thay đổi để trở nên tốt và hoàn thiện thì khó hơn đổi thay để trở nên tầm thường và buông thả. Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu bạn trẻ đã đang bị thất bại trong cuộc sống bởi chạy đua theo thói hư tật xấu như hút sách, cá độ, chơi bời lêu lổng và ngại phấn đấu. Họ ưa thích đua đòi một cuộc sống hưởng thụ, an nhàn và hoang phí. Chúng ta không ngồi đây để than phiền trách móc hay chán nản. Những vị hữu trách cần tỉnh thức lên tiếng cảnh báo và đề phòng giúp các bạn trẻ có cơ hội đổi mới cuộc đời.
Nước Trời giống như hạt cải bé nhỏ hay giống như men trong đấu bột. Bột làm chất xúc tác để dậy men: Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men (Mt 13, 33). Trong cuộc sống xã hội hôm nay, cần nhiều nhân chứng chân thật và thánh thiện. Chúng ta, các Kitô hữu, phải luôn là muối, là men và là ánh sáng soi đường cho những người cùng đồng hành. Ai trong chúng ta cũng đều có ẩn chứa trong mình chất lúa và cỏ lùng. Có nghĩa là đức tính tốt và xấu lẫn lộn, chúng ta cần ý thức nhận biết đâu là lẽ phải, điều tốt để đi theo và đâu là sự sai trái để tránh xa. Sự nhắc nhở của các vị có trách nhiệm rất quan trọng cho những ai còn đang mê ngủ hay say đắm chôn vùi trong lầm lạc. Lời Chúa và sự khuyên dậy sẽ giúp tỉnh thức và có thể tìm đường giác ngộ.
Chúng ta đang trải nghiệm cuộc sống qua muôn hình vạn trạng. Có rất nhiều điều thật khó mà đánh giá đúng sai, phải trái, vì nó vừa thật vừa ảo. Có thể nói là ‘ba phải’. Mục đích của cuộc sống là đi tìm kiếm niềm vui, sự hoan lạc và thỏa mãn. Mỗi người có kinh nghiệm trong hoàn cảnh đời sống riêng tư của mình. Kinh nghiệm mục vụ, có nhiều các cha mẹ vào xin rửa tội cho con. Khi hỏi về vấn đề gia đình, hôn thú, hôn phối và cưới xin, phần lớn các anh chị chỉ trả lời quanh quanh và hứa xuông. Các anh chị ấy sống chung nhưng không có hôn phối, có khi tách biệt nhau hoặc độc thân nuôi con. Khi đặt vấn đề niềm tin đạo giáo, tín lý, luân lý đạo đức, luật lệ, thói tục, phong tục và tập quán, để hướng dẫn tâm linh, thì hình như các thầy dậy đạo giáo đang bị lạc lõng vào thế giới không tưởng và không còn thực tế. Quan sát cuộc sống chung quanh, người già, kẻ trẻ sống cả như vậy, sự liện hệ chằng chịt, họ vẫn sống vui vẻ và sinh hoạt tốt, có sao đâu! Lúa và cỏ lùng cứ mọc cho tới mùa gặt. Có thể lạc quan khi chúng ta nhìn cuộc sống là một tiến trình (progress) từ giai đoạn này tới giai đoạn kia nhưng sẽ kéo theo nhiều hệ lụy trong đời sống. Chúng ta biết mọi sự ở đời phải có lúc kết thúc. Sau cùng thì cỏ lùng sẽ bị đốt và lúa được chất vào kho lẫm.
Là Kitô hữu, chúng ta luôn chăm chỉ cầu nguyện hằng ngày. Cầu nguyện là linh hồn của cuộc sống đức tin. Với sức lực riêng, chúng ta rất khó thắng vượt những cám dỗ và những mời gọi hưởng thụ nhất thời. Cầu ơn Chúa Thánh Thần soi sáng trong mọi tư tưởng, lời nói và việc làm cho xứng hợp với danh nghĩa là Con Chúa: Mà Đấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa (Rm 8, 27). Xin Thiên Chúa chúng lành cho chúng ta mọi ngày trong đời sống.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN-A
LÒNG KIÊN NHẪN- Lm.Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Xưa nay con người thường hay bị cám dỗ nhìn phân chia đời sống trong xã hội cách đơn giản ra làm hai ranh giới: trắng và đen, tốt và xấu… Căn cứ theo đó mà xét định phê phán.
Nhưng trong thực tế đời sống đâu có đơn giản như thế.
Thực tế đời sống con người không chỉ có hai lằn ranh như ta nghĩ tưởng trắng và đen, tốt và xấu. Nhưng còn có lằn ranh ở giữa, ở tầng trên hay ở bên dưới những yêu tố đó nữa. Những lằn ranh này ẩn hiện khó nhận ra, và lại thường ăn sâu ảnh hưởng trong đời sống nhiều hơn, dù là đời sống cá nhân một ai, hay đời sống chung cộng đoàn xã hội, tôn giáo.
Đó là những bề không hẳn là tối đen, cũng không hẳn là sáng tỏ. Chúng như bóng rợp của một tàn cây ngả đổ xuống trên đường che khuất ánh sáng mặt trời một bên. Thông thường trong đời sống cây càng cao, càng rậm rạp nhiều cành lá, bóng rợp của nó đổ ngả xuống càng lan rộng, như ngạn ngữ có câu: Cây cao bóng cả!
Hình ảnh này Chúa Giêsu dùng trong bài giảng nói về Nước Trời: trên đồng lúa có cả cây lúa cùng cỏ hoang dại cùng mọc bên nhau, như trong cánh đồng thực tế đời sống có sự tốt và sự xấu cùng nẩy sinh song hành nơi mỗi người.
Nếu người làm ruộng vườn khi vừa phát hiện ra cỏ dại hoang mọc lên, mà vội nhổ hay cắt cỏ đi, thì vô tình làm cho cây lúa, cây giống tốt nằm sát bên cạnh cũng bị bật rễ, bị động, hay bị cắt ngọn theo. Như thế sự sống tích cực cũng bị chặn đứng thiệt hại.
Cung cách sống kinh nghiệm của người làm ruộng là kiên nhẫn chờ cho cỏ dại cùng cây lúa mọc lên cứng cáp, lúc đó sẽ dễ phân biệt hơn và lúc nhổ cỏ dại, cây lúa đã bén rễ sâu ít bị ảnh hưởng giao động làm lung lay gốc rễ.
Với đời sống con người cũng tương tự như thế, nơi mỗi người đều có mầm sống sự tốt lành. Sự xấu, sự dữ nẩy sinh trong đời sống là điều cần phải ngăn chặn xa tránh. Nhưng không vì thế mà phải phá đổ hoàn toàn bức tượng khi thấy một dấu vết hòn sỏi đá nào lẫn trong bức tượng.
Với đời sống tinh thần con người, ngày hôm nay có thể là chưa tốt. Nhưng ngày mai có thể sẽ trở nên tốt. Đời sống con người cần luật lệ, cần kỷ luật, chính những điều này giúp nhắc nhớ con người trở nên công chính tốt lành.
Cha mẹ nào cũng đều mong muốn con cháu mình sống nên người tốt. Nhưng rất nhiều khi thực tế đời sống của họ lại có những giai đoạn, những khúc quanh không như thế. Và đâu có cha mẹ nào, vì thế, mà chối bỏ con cháu mình đâu. Trái lại họ tỏ tấm lòng bao dung kiên nhẫn chờ đợi con cái mình sẽ có ngày thay đổi nếp sống trở nên lành mạnh tốt đẹp.
Lòng kiên nhẫn là một nhân đức bác ái. Nhân đức này thể hiện tấm lòng đạo đức kính trọng Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống, cùng là lòng đạo đức tình người với nhau.
Lòng kiên nhẫn cũng là ân đức khôn ngoan Đức Chúa Thánh Thần ban xuống tâm hồn mỗi tín hữu ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức.
Trong đời sống, dù sự dữ nhiều khi lấn lướt sự tốt lành ngay chính. Nhưng Thiên Chúa, Đấng tạo dựng, cùng gìn giữ hướng dẫn đời sống con người luôn kiên nhẫn chờ đợi, ban ơn trợ giúp họ trở về con đường sống tốt lành, con đường mang lại hoa trái sự sống.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- A
LÚA VÀ CỎ- Lm. Giuse Nguyễn văn Thuần
Bài Tin Mừng kể lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn nắm men. Cả ba dụ ngôn này đều có ý nghĩa rất hay và dạy chúng ta những bài học rất hữu ích. Ở đây ta chỉ tìm hiểu một dụ ngôn cỏ lùng thôi.
Trước hết, chúng ta hãy hình dung lại câu chuyện cỏ lùng và cây lúa: có một người chủ ruộng kia đi gieo lúa trong ruộng mình. Chiều đến, ông trở về nhà, mệt nhọc nhưng vui vì đã hoàn tất công việc. Ông và cả gia đình có thể yên tâm nghỉ ngơi, chờ đợi lúa mọc lên. Nhưng có một người hàng xóm ma giáo, xấu bụng. Người này đã từ lâu ghen tỵ với ông khi thấy trang trại của ông càng ngày càng rộng lớn, trù phú. Anh ghen tỵ và không ngừng tìm mưu kế để hại ông, nên khi thấy ông gieo mạ, anh nảy ra ý định gieo hạt cỏ lùng vào ruộng của ông để phá hoại. Không lâu sau đó, ý định gian ác kia được anh đem ra thi hành. Vào một đêm tối, khi mọi người đang ngủ say, anh mò ra ruộng, vội vàng gieo hạt cỏ lùng vào trong ruộng của ông chủ kia, rồi nhanh nhẹn tẩu thoát, không ai nhìn thấy.
Kết quả, khi lúa mọc lên thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Tôi tớ của ông chủ đã sớm phát hiện ra điều này và đề nghị với ông cho họ đi nhổ cỏ lùng, nhưng ông bảo họ hãy chờ đến mùa gặt. Tại sao ông chủ không cho nhổ cỏ lùng ngay? Chúng ta biết: cỏ lùng là một thứ cỏ dại, giống hệt như cây lúa. Người nông dân khó mà phân biệt được lúa và cỏ lùng khi chúng còn non và chưa đâm bông. Nhưng khi lúa đã đâm bông rồi, thì một em bé thiếu kinh nghiệm, cũng phân biệt được đâu là cây lúa, đâu là cỏ lùng. Cỏ lùng thường mọc khi lúa đã lớn, nhưng lại giỗ và chín sớm hơn lúa, thành thử đó là cái phiền cho nhà nông: không biết nhổ lúc nào cho tiện. Nhổ lúc còn non thì e nhổ lầm cả lúa, vì nó rất giống cây lúa. Không những thế, rễ cỏ lùng thường mọc chằng chịt quấn bó vào rễ lúa, nên nếu nhổ cỏ cũng có thể kéo luôn cả lúa lên. Mà nếu như để đến ngày mùa, thì nó ăn hại hoa màu của lúa. Nhưng dù sao thì cũng phải chấp nhận một giải pháp nào tương đối bớt hại hơn, như ông chủ trong dụ ngôn đã làm, là chờ tới ngày mùa, gặt cả hai một trật. Như thế, chúng ta thấy cỏ lùng là thứ cỏ dại có hại cho lúa và là kẻ thù của nhà nông.
Dụ ngôn này có ý nghĩa thế nào? Chính Chúa Giêsu đã giải thích: người gieo giống tốt là chính Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn tốt lành, vì bản tính Ngài là chân thiện mỹ, mọi vật do Ngài tạo dựng đều tốt đẹp. Ngài dựng nên mặt trời, mặt trăng để chiếu sáng cho mọi người, Ngài làm mưa làm nắng trên mọi người, kẻ lành cũng như kẻ dữ. Thiên Chúa gieo giống tốt vào ruộng. Hạt giống là người ta, là con cái Chúa, là những người tốt lành. Thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc và phục vụ. Cỏ lùng là người xấu, kẻ ác, kẻ dữ do ma quỷ cám dỗ, chiếm đoạt. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là thiên thần. Khi ấy thiên thần sẽ phân loại người lành người dữ, kẻ tốt kẻ xấu để Thiên Chúa thưởng phạt: kẻ lành được đưa vào Nước Trời, kẻ dữ bị tống vào hỏa ngục.
Qua những điều giải thích trên, chúng ta đã hiểu ý nghĩa của dụ ngôn và có thể suy luận được những bài học Chúa Giêsu muốn dạy. Thực vậy, chúng ta có thể rút ra được ba bài học: Thứ nhất, nơi trần gian này, bất cứ ở đâu, bất cứ ở thời đại nào, cũng có lành có dữ, có tốt có xấu, có phải có trái, có sáng có tối, có đen có trắng, có vàng thau lẫn lộn, có trứng gà trứng ếch,… Và như vậy, ở trần gian này, luôn luôn có người lành kẻ dữ, người tốt kẻ xấu sống bên nhau, sống chung với nhau như lúa và cỏ lùng ở trong một thửa ruộng. Đó là chuyện thường và chúng ta phải công nhận đời là thế. Chúng ta thường quá lý tưởng mong muốn chỉ có người lành người tốt, chúng ta không thể nóng tính đòi Chúa hủy diệt ngay những kẻ dữ kẻ xấu. Chuyện này chỉ xảy ra vào ngày tận thế mà thôi, lúc ấy sẽ được phân định rõ ràng: kẻ lành kẻ dữ sẽ vĩnh viễn xa nhau: kẻ lành sẽ được trọng thưởng trong Nước Trời, còn kẻ dữ sẽ bị trừng phạt trong hỏa ngục.
Thứ hai, chúng ta biết: cỏ lùng là cỏ dại đem lại những hat có chất độc và sự chết, cây lúa đem lại những hạt lúa hạt thóc bổ dưỡng và nuôi sống con người. Vậy mỗi người hãy kiểm điểm: chúng ta là cỏ lùng hay là lúa? Chúng ta đang đem lại sự sống hay sự chết cho nhau? Chúng ta hãy suy nghĩ: sự sống, tài năng, sức khỏe, tiền của chúng ta đang có, đã được sử dụng thế nào? Sử dụng đúng hay sai? Đem lại ích lợi cho mình và gia đình, hay là gây hại cho mình và gia đình? Có bao giờ chúng ta ngồi bóp trán suy nghĩ về những lần chúng ta đã gây khổ đau cho người khác không?
Thứ ba, chúng ta hãy nhớ: đời này là đời tạm, đời sau mới là vĩnh viễn. Nhưng cuộc sống đời này lại có giá trị quyết định cho số phận đời sau của chúng ta, nghĩa là Thiên Chúa sẽ căn cứ vào những năm tháng chúng ta sống ở trần gian mà thưởng phạt chúng ta. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết lựa chọn giữa tốt và xấu, phải làm lành lánh dữ, không thể sống lửng lơ con cá vàng, sống nửa nạc nửa mỡ, sống ương ương dở dở, sống kiểu vàng thau lẫn lộn được, nghĩa là không thể vừa làm lành vừa làm dữ được. Chúng ta phải cố gắng lập công, để khi ra khỏi đời này, chúng ta được Thiên Chúa đưa vào Nước Trời.
Hôm nay chúng ta hãy cầu xin Chúa: Lạy Chúa, biết bao lần chúng con đã là cỏ lùng, gây hại cho mình và thiệt hại cho những người khác. Xin cho chúng con trở thành những cây lúa đem lại ích lợi cho mọi người. Xin cho những người xấu được trở nên những người tốt và cho những người tốt được tốt thêm và tốt thật.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN-A
THIÊN CHÚA KIÊN NHẪN VÀ BAO DUNG- Lm. Phêrô Nguyễn Huơng
Nếu Chúa Nhật vừa rồi dụ ngôn “người gieo giống” diễn tả hình ảnh về một Thiên Chúa yêu thương và quảng đại trong việc phân phát Lời và Ơn Cứu độ của Người cho hết mọi người, thì Chúa Nhật XVI này phụng vụ Lời Chúa lại giới thiệu với chúng ta về một Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung trước sự dữ và tội lỗi của chúng ta.
Lúa và cỏ lùng, thực tại của cuộc sống
Khởi đầu dụ ngôn Chúa Giêsu ví Nước Trời như một thửa ruộng trong đó “lúa và cỏ lùng” mọc chung với nhau. Nếu lúa tượng trưng cho những con người tốt và những việc tốt, những điều thiện hảo, thì cỏ lùng lại tượng trưng cho những người xấu, những việc xấu, và tội lỗi. Lúa mọc với cỏ lùng, sự thiện ở bên cạnh sự dữ, người tốt sống với kẻ xấu. Sự lẫn lộn giữa “lúa và cỏ lùng” này chúng ta gặp bất cứ ở đâu: trong gia đình, ngoài xã hội, trong cộng đoàn, nơi công cộng, và ngay cả trong chính lòng của mỗi người.
Dụ ngôn của Chúa Giêsu cũng chỉ cho chúng ta thấy nguồn gốc của sự lành và sự dữ. Tất cả mọi sự tốt lành trong thế giới này đều đến từ Thiên Chúa, Người là nguồn gốc của mọi sự thiện hảo. Còn sự dữ là do Ma quỷ gieo vào. Ma quỷ là kẻ thù luôn chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và Chúng tìm cách dụ dỗ con người làm những điều xấu và gây đau khổ cho người khác. Chúng ta phải tĩnh thức vì ngày hôm nay Ma quỷ hoạt động càng tinh vi để gieo rắc cỏ lùng sự dữ vào trong cuộc sống chúng ta!
Tại sao Thiên Chúa lại để như thế?
Trước “cỏ lùng”, sự dữ và người tội lỗi, thái độ của chúng ta thường giống như những người đầy tớ chủ ruộng: là muốn nhổ đi, loại trừ, nổi loạn, hoặc bất bao dung. Nhưng thái độ của Thiên Chúa được dụ ngôn nói tới thì hoàn toàn khác hẳn. Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung trước sự dữ, nhất là trước tội nhân. Bởi vì Thiên Chúa biết rằng: từ sự dữ có thể đưa tới sự lành! Từ một người tội lỗi có thể trở thành một vị thánh. Hay nói như Đức HY Nguyễn Văn Thuận: “Thiên Chúa biết vẽ những đường thẳng trên những đường cong”. Thiên Chúa luôn hy vọng và cho chúng ta những cơ hội để hoán cải, để thay đổi đời sống, để trở thành điều mình phải là. Nói như sách Khôn Ngoan: “Khi hành động như thế, Người dạy dỗ dân Người rằng: Người công chính phải ăn ở nhân đạo… Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối” (Kn 12,19). Hay nói như Thánh Vịnh hôm nay: “Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với ai kêu cầu Chúa” (Tv 85,5). Và Thánh Phaolô nói cách tuyệt với rằng: “Có Chúa Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta” (Rm 8,26).
Thời gian chúng ta sống là thời gian kiên nhẫn của Thiên Chúa, thời gian của sám hối, thời gian để làm điều thiện. Cỏ lùng thì mãi mãi là cỏ lùng, còn con người thì khác, con người có thể cải tà qui chính, có thể từ một thằng quỷ biến thành một vị thánh. Trong cái nhìn đó, Đức Thánh Cha Benedetto XVI trong lễ khai mạc sứ mạng giáo hoàng của Ngài, đã có câu nói rất hay: “Chúng ta chịu đựng vì sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta tất cả cần sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đấng đã trở thành con chiên, nói với chúng ta rằng thế giới được cứu độ bởi Đấng Chịu đóng đinh chứ không phải những kẻ đóng đinh. Thế giới này được cứu độ nhờ sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và bị phá hũy bởi sự bất kiên nhẫn của con người”. (Benedetto XVI, Omelia nell’inizio solenne del Pontificato, Roma, 24 aprile 2005)
Nếu Thiên Chúa hành xử cách thẳng tay và ngay lập tức thì sẽ không có: một Phaolô bắt bớ Giáo hội, lại trở thành một người Tông đồ dân ngoại đi khắp nơi hăng say rao giảng Tin Mừng Đức Kitô; một Augustinô tội lội và phóng túng, đã trở thành một vị đại thánh, bậc tiến sỹ của Giáo hội; một Charles de Foucauld lêu lỗng lại trở thành người sống nghèo khó và khiêm tốn; một Ève Lavallìere cô đào nỗi tiếng của Pháp đã từ bỏ vinh quang và phú quí để sống cuộc đời hoàn toàn cho Chúa trong tu viện vv..vvv. Rất nhiều những chứng tích khác đã là những vị thánh lừng danh nhờ sự kiên nhẫn và bao dung của Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- A
THIÊN CHÚA LUÔN CHO TA CƠ HỘI ĐỂ HOÁN CẢI– Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có một câu ngạn ngữ nói rằng: Khi cuộc đời đóng lại cánh cửa trước mặt chúng ta, thì Thiên Chúa luôn mở cho ta cánh cửa khác. Có thể nói rằng, câu ngạn ngữ này thật đúng. Khi mỗi người bình tâm nhìn lại cuộc đời của mình sẽ thấy Thiên Chúa luôn cho chúng ta những cơ hội. Có những lúc trước mặt ta là cả một bầu trời đen tối, thì Thiên Chúa luôn cho ta một tia hy vọng; có những khi ta tưởng rằng với tội lỗi mình gây ra, đáng lẽ mình đã phải trả giá, thế nhưng Thiên Chúa vẫn độ lượng cho chúng ta thời gian và cơ hội sửa chữa sai lầm.
Nhân từ và khoan dung là “đặc tính” trong cách hành xử của Thiên Chúa. Nhìn lại lịch sử của dân Israel, chúng ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương chăm sóc họ như một người cha lo cho con cái; vậy mà rất nhiều lần, Israel từ chối tình yêu và sự chăm sóc của Ngài. Những lúc như thế, Thiên Chúa như một người cha, vừa giận lại vừa thương. Cũng nhiều lần, với sự công thẳng, Ngài như muốn để cho Israel bị tiêu diệt khỏi mặt đất, nhưng tấm lòng người cha không cho phép Ngài làm như thế. Ngài lại tha thứ, yêu thương và đón nhận họ khi họ sám hối trở về.
Bài đọc một, tác giả sách Khôn Ngoan đã suy gẫm về Thiên Chúa và nhận ra rằng: Thiên Chúa luôn phải chịu sự giằng co giữa nhân từ và lỗi phạm, giữa công thẳng với khoan dung. Tác giả giải thích: Chính do sức mạnh của Chúa, mà Chúa hành động công minh- vì Chúa làm bá chủ vạn vật nên Chúa lại nương tay với muôn loài. Thiên Chúa luôn xử khoan hồng, lấy lượng từ bi cao cả mà cai quản con ngươi, chỉ những ai cố tình, cố chấp thì Ngài mới xử tội. Tác giả sách Khôn Ngoan còn nghiệm ra rằng, Thiên Chúa làm như thế là để dạy chúng ta: Người công chính phải có lòng nhân ái, vì Thiên Chúa luôn cho con cái niềm hy vọng và cho người có tội có cơ hội để sám hối.
Dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay về câu chuyện cỏ lùng trong ruộng, cho thấy sự khác biệt về cách hành xử giữa Thiên Chúa và con người. Trước hết, câu chuyện trả lời cho thắc mắc muôn thuở của con người: Tại sao Thiên Chúa là Đấng quyền năng, nhân từ sao lại để cho nhiều sự xấu, sự ác xảy ra trong thế giới như thế? Thiên Chúa không tạo nên sự xấu, Ngài càng không tạo nên sự ác. Giống như người chủ trong câu chuyện, ông đã không hề gieo cỏ lùng, nhưng ông gieo giống lúa tốt trong ruộng của ông và ông hết sức chăm lo cho mảnh ruộng của mình. Tuy nhiên, khi mọi người đang ngủ, kẻ thù của ông đã gieo cỏ lùng vào ruộng lúa rồi đi mất. Kẻ thù của Thiên Chúa chính là ma quỷ. Nó không muốn nhìn thấy con cái Chúa được hạnh phúc. Nó ghen tỵ vì con người được Chúa yêu thương. Vì thế, nó lén lút, đợi khi con người say ngủ trong lối sống và thói quen của mình, thì đã gieo những hạt cỏ dại vào trong tâm hồn mỗi người. Những hạt cỏ này cứ âm thầm mọc lên, đến một lúc nào đó, nó lấn lướt hết những việc tốt lành và biến mảnh ruộng tâm hồn chúng ta trở nên vườn hoang cỏ dại.
Nhìn thấy sự xấu, sự ác cùng với những bất công đang xảy ra trong xã hội, nhiều người đã giống như những đầy tớ trong câu chuyện hôm nay, họ muốn quay lại trách Thiên Chúa và nghi ngờ về quyền năng của Ngài: Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng của ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy? Không chỉ trách Thiên Chúa, mà họ còn muốn Thiên Chúa hành xử theo cách của họ, khi đề nghị với ông chủ: Vậy ông có muốn cho chúng tôi đi gom chúng lại không? Với đề nghị này, những người đầy tớ trong câu chuyện muốn nhân danh Thiên Chúa và sự công thẳng của Ngài để loại trừ những người xấu, những kẻ bị xem là cỏ lùng. Như thế, những người này tự cho mình là những người tốt, những người xứng đáng có quyền để kết án người khác.
Thiên Chúa có quyền trừng phạt ngay lập tức kẻ có tội, những kẻ xấu và những người gây ra sự ác, nhưng Thiên Chúa đã không làm như vậy, Ngài có cách hành xử riêng của Ngài. Trước lời đề nghị đi nhổ cỏ lùng của những người đầy tớ, ông chủ đã trả lời: Đừng, vì sợ rằng khi đi nhổ cỏ, các anh lại làm bật luôn rễ lúa. Hãy cứ để cả hai cùng mọc lên cho đến mùa gặt. Đến mùa gặt, tôi sẽ cho thợ gom cỏ lùng lại và đốt đi, còn lúa thì cho vào kho lẫm. Câu trả lời này cho thấy sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với những kẻ có tội và những người làm điều xấu. Thiên Chúa luôn cho con người có thời gian và cơ hội để hoán cải, để làm lại cuộc đời. Dĩ nhiên, Thiên Chúa không mong cỏ lùng biến thành lúa, nhưng Ngài lại mong người xấu biến thành người tốt, kẻ gian ác biến đổi nên người lương thiện, và đến ngày xét xử, Thiên Chúa sẽ xử công minh với mỗi người tùy theo việc họ đã làm.
Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Điều đó cho thấy rằng, Thiên Chúa không hề nóng vội, cũng không hề mất kiên nhẫn với con người. Ngài là một người Cha luôn chờ đợi chúng ta là những người con sám hối trở về để Ngài tha thứ. Ngài không hề kể tội chúng ta khi chúng ta quay về. Trái lại, Ngài luôn mở rộng vòng tay ôm chúng ta vào lòng và cho chúng ta được ngụp lặn trong biển yêu thương của Ngài. Tuy nhiên, đến thời hạn sau cùng, nếu người nào còn cố chấp trong sự sai trái của mình, từ chối tình yêu, bỏ mất cơ hội hoán cải, không chấp nhận quay trở lại thì kẻ ấy sẽ biến mình trở thành thù nghịch với Thiên Chúa và sẽ bị hủy diệt trong lò lửa.
Tuy nhiên, không dễ để mỗi người nhận ra thực trạng của mình: Hiện nay, tôi đang là cỏ lùng hay là lúa? Hiện nay, mảnh ruộng tâm hồn tôi đang là ruộng lúa hay đang là ruộng cỏ? Để có thể nhận ra được tình trạng tâm hồn của mình là cỏ hay là lúa, ruộng lúa hay là ruộng cỏ, chúng ta cần phải có sự trợ giúp của Thánh Thần. Đó là điều Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta trong thư Roma: Thần Khí sẽ giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Điều đó có nghĩa là qua việc cầu nguyện cùng với sự soi sáng của Thánh Thần, chúng ta sẽ nhìn rõ về con người và tình trạng tâm hồn của mình. Chỉ khi dám nhìn vào tâm hồn mình và khiêm tốn nhìn nhận sự sai trái của mình, chúng ta mới có thể khắc phục được những sai lầm trong cuộc sống, và cùng với ơn Chúa và sức mạnh của Thánh Thần, chúng ta mới có thể tận dụng được cơ hội và thời gian Chúa ban để hoán cải.
Thưa quý OBACE, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người nhìn lại tình trạng tâm hồn của mình và biết học nơi Chúa sự nhẫn nại và quảng đại bao dung với anh chị em chung quanh, đừng vội kết án, nhưng luôn cho anh chị em mình cơ hội để làm lại cuộc đời.
Các bậc làm cha mẹ luôn muốn mảnh ruộng gia đình là một mảnh ruộng tốt và muốn con cái mình là những giống lúa tốt. Tuy nhiên, vì sức ép của đời sống kinh tế, vì cám dỗ chạy theo vật chất và danh vọng, nhiều người đã ngủ quên trong công việc, trong việc tìm kiếm cơm áo nên đã bỏ quên ruộng lúa là gia đình, bỏ quên con cái, để cho ma quỷ và sự xấu len lỏi vào trong gia đình, trong tâm hồn của mình và của con cái. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần điều chỉnh lại cuộc sống của mình, cần biến tâm hôn mình thành mảnh đất tốt, dành nhiều thời gian hơn nữa cho gia đình, cho con cái để chuyện trò, để hiểu nhau hơn và thông cảm với nhau hơn. Hãy gieo vào gia đình và tâm hồn con cái nhiều việc tốt, nhiều gương sáng, hãy đem Chúa vào trong gia đình qua những giờ kinh, giờ cầu nguyện và hãy gieo vào tâm hồn mình và con cái những hạt giống của Tin Mùng. Khi tỉnh thức như thế, thì ma quỷ và sự xấu sẽ không thể lẻn vào gia đình chúng ta được.
Lời Chúa cũng muốn chúng ta học nơi Chúa sự kiên nhẫn và quảng đại với anh chị em. Đừng vội kết án hay loại trừ khi anh em mình sai lỗi, nhưng hãy ân cần nâng đỡ và tạo cơ hội cho anh chị em làm lại cuộc đời. Thiên Chúa không bao giờ dập tắt hy vọng của chúng ta, Ngài cũng không bao giờ khóa chặt cánh cửa tương lai của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ đóng chặt cửa tương lai, đừng bao giờ dập tắt hy vọng của mình và của anh chị em mình. Amen.